banner Các Thế Hệ Thầy Cô
side2

LE LAC
Lamartine

Lamartine (1790-1869) là một trong những nhà thơ khởi xướng phong tràophái lãng mạn trong văn học Pháp vào thế kỷ XIX.
Bài thơ “Le Lac”được nhiều người ưa thích trong số các vần thơ của Lamartine.
Trong “Le Lac”, thi sĩ trở lại chốn xưa, nơi đánh dấu cuộc tình với người tình Julie Charles (Elvire) nay đã mất.
Nhà văn VITA dịch bài thơ nầy đã hơn 70 năm qua.



Le lac
Ainsi toujours poussés vers de nouveaux rivages,
Dans la nuit éternelle emportés sans retour,
Ne pourrons-nous jamais sur l’océan des âges,
Jeter l’ancre un seul jour ?


Cái hồ
Cứ đẩy mãi xuôi vào bến mới
Trong đêm trường đưa tới chẳng về
Thời-gian, bể cả rộng ghê
Nhân-sinh chiếc bách, bến mê không ngừng?


O lac ! l’année à peine a finis a carrière,
Et près des flots chéris qu’elle devait revoir
Regarde ! Je viens seul m’asseoir sur cette pierre
Où tu la vis s’asseoir !


Nầy hồ hỡi ! Năm dài vừa mãn,
Bên sóng yêu nàng hẳn đến nhìn,
Xem ! Ta trên đá một mình,
Mà ngươi đã thấy bạn tình khi xưa.


Tu mugissais ainsi sous ces roches profondes
Ainsi tu te brisais sur leurs flancs déchirés,
Ainsi le vent jetait l’écume de tes ondes
Sur ses pieds adorés.


Rền-rĩ thế dưới gầm động thạch,
Sóng bủa sườn, ngươi rách tả-tơi,
Gió tung bọt sóng tơi-bời,
Gót son trắng điểm, tuyệt-vời yêu-đương.


Un soir, t’en souvient-il ? nous voguions en silence,
On n’entendait au loin, sur l’onde et sous les cieux
Que le bruit des rameurs qui frappaient en cadence
Tes flots harmonieux.


Một chiều nọ, trên gương hồ phẳng,
Còn nhớ chăng? thuyền lẵng lặng trôi,
Xa xa, mặt nước, bầu trời,
Chỉ nghe rơi mái chèo…rơi nhịp nhàng.


Tout à coup des accents inconnus à la terre
Du rivage charmé frappèrent les échos,
Le flot fut attentif, et la voix qui m’est chère
Laissa tomber ces mots:


Thình lình cất tiếng nhân-gian lạ,
Bến say mê, lay cả vang-âm
Lắng nghe sóng bạc âm-thầm,
Tiếng ai yêu-dấu, bổng, trầm hữu-duyên:


O temps, suspends ton vol ! et vous, heures propices
Suspendez votre cours !
Laissez-nous savourer les rapides délices
Des plus beaux de nos jours !


Hãy dừng lại, giờ hên, phút tốt,
Khoan trôi đi ! dừng cất cánh bay !
Để ta tận hưởng vui say
Chóng qua của những chuổi ngày xuân tươi !


Assez de malheureux ici-bas vous implorent :
Coulez, coulez pour eux :
Prenez avec leurs jours les soins qui les dévorent
Oubliez les heureux !


Biết bao kẻ chơi-vơi bể khổ,
Cầu thời gian giúp họ qua mau
Nghiệp trần với khổ lo âu :
Riêng ai hạnh-phúc xin cầu ngươi quên.


Mais je demande en vain quelques moments encore,
Le temps m’échappe et fuit.
Je dis à cette nuit : « Sois plus lente », et l’aurore
Va dissiper la nuit.


Nhưng khẩn-khoản gia thêm ít khắc,
Thời-gian đành thoăn-thoắt lướt bay,
Cầu xin chậm bớt đêm nay,
Rồi vừng đông sẽ xóa ngay đêm tàn.


Aimons donc, aìmons donc, de l’heure fugitive,
Hâtons-nous, jouissons !
L’homme n’a point de port le temps n’a point de rive
Il coule et nous passons !


Hãy yêu, yêu mãi, yêu vô-lượng,
Mau vui say giờ cuộn cuộn sang :
Giờ qua đời cũng chóng tàn
Kiếp trần không bến, thời-gian không bờ !


Temps jaloux ! se peut-il que ces moments d’ivresse
Où l’amour à longs flots nous verse le bonheur,
S’envolent loin de nous de la même vitesse
Que les jours de malheur ?


Ganh chi bấy thời gian, những lúc,
Thú yêu-đương hạnh phúc tràn tuôn,
Bay đi vun-vút biệt luôn,
Cũng đồng như lúc đau, buồn, thế chăng ?


Hé quoi ! n’en pourrons-nous fixer au moins la trace
Quoi ! passés pour jamais ? quoi ! tout entier perdus ?
Ce temps qui les donna, ce temps qui les efface,
Ne nous les rendra plus ?


Ít ra cũng lưu chi dấu vết
Kìa ! qua luôn, kìa ! mất hết sao ?
Đã ban hạnh-phúc dồi-dào,
Rồi nay lại xóa chẳng bao thuở hồi ?


Éternité, néant, passé, sombres abîmes !
Que faites-vous des jours que vous engloutissez ?
Parlez : nous rendrez -vous ces extases sublimes
Que vous nous ravissez ?


Hỡi trường-cữu, hư-vô, dĩ-vãng,
Mịt-mù xa vô-hạn, vực sâu !
Ngày vui ngây-ngất chôn sao,
Thời-gian cướp đoạt có hầu trả chăng ?


O lac ! rochers muets, grottes, forêt obscure !
Vous que le temps épargne ou qu’il peut rajeunir,
Gardez de cette nuit, gardez, belle nature,
Au moins le souvenir !


Hỡi hồ đá, hang sâu, rừng tối,
Được thời-gian thấm gội trẻ xinh,
Ít ra kỷ-niệm đêm tình,
Lưu dùm, tạ-vật đượm nghìn sắc-hương !


Qu’il soit dans ton repos, qu’il soit dans tes orages,
Beau lac, et dans l’aspect de tes riants coteaux,
Et dans ces noirs sapins, et dans ces rocs sauvages
Qui pendent sur tes eaux !


Dầu bảo táp hay cơn yên-tĩnh,
Và đồi con trong cảnh sởn-sơ,
Trong rừng thông bóng âm-u,
Hay trong khóm đá hoang-vu soi hình.


Qu’il soitdans le zéphyr qui frémit et qui passe,
Dans les bruits de tes bords par tes bords répétés,
Dans l’astre au front d’argent qui blanchit ta surface
De ses molles clartés !


Dầu trong gió rùn mình nhẹ lướt,
Trong sóng đưa vỗ nước bên hồ,
Hay trong trăng bạc nhấp-nhô,
Lồng soi ngấn nước, ánh mơ dịu-dàng.


Que le vent qui gémit, le Roseau qui soupire,
Que les parfums légers de ton air embaumé,
Que tout ce qu’on entend, l’on voit ou l’on respire,
Tout dise : «Ils ont aimé ! »


Gió hiu hắt, sậy lau than vãn,
Hương thoảng xông quanh quẩn từng không !
Bao nhiêu cảnh vật cảm-thông,
Xin đồng nhắc-nhở « Tình chung nơi hồ »


Lamartine (Méditations poétiques)
VITA dịch (Trầm-tư-lục)



 

Last updated 3/21/2012


 

 

side2
side1
side1
side1
side1
side1
side1
side1
side1
side1
side1
side1
side1