“Sư - huynh, đệ, tỷ, muội” cựu học sinh Hoàng Diệu Baxuyên, các Bạn Facebook thân mến, hôm nay tôi ghi lại những dòng nầy (tạm gọi là đề tài “Hoàng Diệu Còn Lại Trong Tôi”) một là để nói lên tình cảm, hoài niệm của cá nhân tôi về mái trường xưa, hai là mong các bạn đóng góp thêm để cho “đề tài” thêm phần xôm tụ.
Sau hơn 40 năm rời khỏi mái trường Hoàng Diệu, ngôi trường rất đơn sơ, ngói không còn đỏ, mà đã trở thành màu xanh đen vì rong rêu, tường đã loang lổ vì đã bong tróc nhiều mảng, sân trường trải đất hầm, thường bị ngập khi trời mưa to. Nhưng giờ ngồi hồi tưỡng lại những ngày còn đi học lòng vẫn còn bồi hồi, đôi khi ngồi cười “mình ên”, con tôi thường hỏi “ba nghĩ gì mà cười “mình ên” vậy”, tôi chỉ lắc đầu không nói.
Giờ tôi nghĩ là mình phải lưu lại những gì mình mà Hoàng Diệu còn đọng lại trong lòng. Những gì tôi nói ở đây có thể các “Sư - huynh, đệ, tỹ, muội” cựu học sinh của trường đều biết, nhưng tôi vẫn ghi lại để “các đồng môn” có thể thốt lên : “à thì ra nó có năm đó!” hoặc “à thì ra nó biến mất vào lúc đó!”. Đồng thời một lần nữa, mong “các đồng môn” tham gia đóng góp để đề tài xôm tụ hơn.
Thân!
Hoàng Diệu của tôi thời xưa đó.
“. . . Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo; đền cũ, lâu đài bóng tịch dương . . .”
Lại nói chuyện ai cũng biết rồi, cáo lỗi nghe, trường Hoàng Diệu ngày tôi mới vào học, có 3 dãy chính:
- Dãy Văn phòng, đầu dãy, là thư viện ở trên lầu do Cô Hội làm Thủ thư, dưới lầu là phòng Giám thị (tôi chỉ còn nhớ có 2 Thầy là Thầy Trần ngoc Ẩn, và Thầy Bé), kế dến là Văn phòng và Phòng Tổng Giám thị, tiếp theo là Phòng Hiệu Trưởng và Phòng Giám học, kế đến Phòng Giáo sư, tiếp nữa là các lớp học. Cuối dãy là nhà vệ sinh. Sau lưng dãy văn phòng là bãi đất trống, có 1 hố nhảy cao, nhảy xa, một xà đơn, một khung sất cao khoảng 5 m để tập leo dây. Khoảng sân độ 5 m tính từ Văn Phòng vì có học sinh chơi đùa, tập thể dục nên tương đối quang đãng, khoảng còn lại thì cỏ dại mọc um tùm.
- Dãy ngang, có hình như là 6, 7 lớp gì đó, cuối dãy là quán của Chú Hai, bán nước đá.
- Bước qua dãy ngang là dãy đối diện với dãy văn phòng, đầu dãy (bên đường Mạc đỉnh Chi) là nhà Thầy Hiệu Trưởng, phía sau dãy nầy là nhà Chú Khuôl “cao”, lao công của trường.
- Ngoài 3 dãy chính, còn có một dãy phụ (tôi tạm gọi như vậy) nằm bên đường Mạc đỉnh Chi. Tôi tạm gọi là dãy phụ vì 3 dãy chính đều lợp ngói, còn dãy nầy thì lại lợp tôl, dãy nầy có 3 phòng: phòng đầu thì dùng để chứa bàn ghế hư hỏng, kế đến là Phòng Y tế học đường do cô Năm phụ trách, tiếp theo là phòng Văn nghệ (lúc nghĩ học tụi tôi thường “lấp ló” tại đây để xem các anh chị lớp trên tập dợt văn nghệ. Khi đó, tụi tôi rất “khoái” bài múa Trấn Thủ Lưu Đồn do anh Đức “ròm”(nhà ở dãy phố làng) làm “đạo diễn”, Chị Hằng (chị của Chi Lăng) và anh Đông Triều hát bài gì mà tôi không biết tên, chỉ nhớ là có câu: “ngày nao em đến chơi tặng tôi một chiếc hình . . .” và bài Đám Cưới Đầu Xuân.) tiếp nữa là khu đất trống, nơi để xe của học sinh (chỉ toàn là xe đạp thôi!!!).
Cột cờ nằm ở trung tâm. Vòng sân trường, đường nối 2 dãy đối diện nhau là đường lót bằng đất hầm, hai con đường nầy chia sân trường thành 4 ô sân nhỏ, mỗi sân như vậy có 1 bồn hoa. Dọc các con đường nầy có trồng cây còng, điệp (phượng) và dương (phi lao), đặc biệt là 4 góc sân là 4 cây còng cao to, tàng lá của 6 hàng cây trên đường che mát cả sân trường. Tôi con nhớ là sau cơn mưa tụi tôi thường chạy ra các con mương thoát nước dọc theo các con đường nầy để bắt cá, còn trời nắng thì chạy giởn dưới các táng cây.
Ngày nay, mỗi khi có dịp vào trường, đứng trước những dãy lớp bê-tông khang trang, nhưng sao tôi lại chỉ nhớ đến những dãy lớp đơn sơ, con đường đất hầm của ngày xưa đó. Đơn sơ nhưng thơ mộng, ấm áp tình bè-bạn, Thầy-trò cùng nhau gắn bó trong suốt 7 năm.
Vậy là mình đã già rồi, chỉ còn lưu luyến cái “thời xưa” thôi.
Lớp Của Tôi, Những Năm Đệ Nhất Cấp:
Tôi vào Hoàng Diệu năm 1964, sau khi học lớp 7 một năm ở trường Trần Văn (1962 – 1963). Năm nầy trường Hoàng Diệu mở 5 lớp đệ thất : 7A1, 7A2, 7P1, 7P2, 7P3 (xin ;ỗi các bạn đồng khóa 64 – 71, vì trong buổi họp mặt 50 Năm Rời Trường tổ chức ngày 11/01/2014 tôi đã nói sai là chỉ có 01 lớp Anh văn). Lớp 7P2 nằm ở phòng thứ 3 cuối dãy ngang đếm ngược về phía Văn Phòng. Năm nầy tôi học toán với Thầy Tuấn “hẹ luộc”, sở dĩ có biệt danh “hẹ luộc” vì Thầy là người bắc, mà đa số chúng tôi là dân miền nam, nên khi Thầy đọc “hệ luận” thì chúng tôi lại nghe thành “hẹ luộc”. Cô Dương Thị Thanh Nguyên dạy Pháp Văn (quyễn Le Franҫais Elémentaire), Cô Hoa dạy Việt Văn, Thầy Thiên dạy Nhạc, Thầy Trần Ngọc Ẩn dạy Thể Dục, mỗi tuần 2 buổi, mỗi buổi 1 giờ, địa điểm là Sân Vận Động của Tỉnh. Nhắc đến giờ Thể Dục. Nhắc đến giờ Thể Dục, bọn tôi không thể nào quên được chuyện tắm ở Hồ nước ngọt (Hồ Tịnh Tâm). Chuyện là thế nầy: sáng sớm, vào lúc 6 giờ (giờ Sàigòn) chúng tôi phải có mặt tại Sân vận động để Thầy dạy, nhưng có lẽ do bận công việc ở trường nên Thầy ít khi đến dạy, trong khi chờ Thầy đến dạy thì tụi tôi chơi đá banh, đến hết giờ thì bọn tôi “hè nhau” qua hồ nước ngọt tắm. Thế là hồ nước ngọt lại có thêm khoảng ba-bốn chục “khách”. Ngày đó chúng tôi rất là hồn nhiên, khi tắm đứa nào cũng “ở truồng” cả, kể cả các bạn lớn tuổi, đã là thanh niên hẳn hòi vẫn vậy thôi!!!!. Như vậy toàn cảnh hồ nước ngọt bấy giờ có khoảng trên 100 người “tắm tiên”. Chuyện “tắm tiên” nầy duy trì cho đến giửa năm đệ tứ mới thôi.
Ngay khi chân ướt chân ráo vào trường, có 2 “sư huynh” gây ấn tượng :mạnh” cho tôi:
Một là “sư huynh” Thạch Mô-del (hình như năm đó đang học đệ Tam thì phải), đẹp trai, tướng tá vạm vỡ, ấn tượng nhất là bắp thịt cuồn cuộn, ngực thì nở nang, bọn tôi cứ trầm trồ mãi ước gì mình có được cái “sô” như anh ấy!!!
Hai là “sư huynh” Trương văn Kế, luôn luôn mặc bộ đồ Pilot vào trường.
Khi còn học tiểu học thì học trò nam mặc áo sơ mi ngắn tay, quần đùi. Nữ sinh mặc áo bà ba, quần dài đen. Khi vào Hoàng Diệu, nam sinh phải mặc quần tây KAKI XANH DƯƠNG, áo sơ mi trắng ngắn tay “bỏ trong thùng”, nữ áo dài trắng (cấm mặc áo mỏng), quần dài đen. Nhờ vào quy định đồng phục (loại rẽ tiền) nên giửa bọn tôi không có sự ngăn cách giàu nghèo (ít nhất là về mặt hình thức), nên dể hòa đồng với nhau. Cũng vì chuyện đồng phục nầy mà xãy ra chuyện buồn cười là tất cả các nam sinh của trường, từ nhỏ đến lớn đều bị “hội chứng” “đóng khố”. Số là do quy định phải bận quần KAKI xanh (hàng nội hóa –Sàigòn) nên do bị, phơi nắng, ủi nhiều nên phần vải chổ baguette, và phần giửa 2 mông bị phai màu, trông giống như quần sì-líp (thường là màu tím than).
Sang năm đệ Lục (6P2) tôi cũng học dãy nầy, nhưng lại “được lên phòng”: học phòng thứ 3 từ đầu dãy đếm xuống, Thầy Trần Phạm Hiếu dạy Pháp Văn, Thầy Nguyễn Hữu Long (Long cao) dạy tôi môn Lý-Hóa, Thầy dạy chúng tôi đên hết kỳ Đệ Nhất Lục Cá Nguyệt thì bị động viên (nhập ngủ). Năm nầy cũng có nhiều Thầy bị nhập ngũ.. Trong năm nầy tôi có 2 điều nhớ mãi:
- Một là trường phát động thi đua lớp sạch và ngoan trong toàn trường, cứ mỗi tuần lớp nào ngoan (do các Thầy cô nhận xét, ghi vào sổ đầu bài) thì đươc lĩnh cờ vàng về treo trước cửa lớp, còn lớp nào không ngoan thì phải lĩnh cờ đen có thêu hình con rùa về treo trước lớp suốt tuần. Lớp tôi luôn lĩnh cờ đen, ít có lớp nào “giành lại”, mà đa số các lần đi nhận cờ (lúc chào cờ đầu tuần) thì tôi lại là người đi lãnh cờ.
- Hai là có một hôm cô Huệ dạy toán, vào lớp bảo chúng tôi lấy giấy, viết ra làm một bài toán hình học. sau một hồi đo vẽ, cô bảo chúng tôi đánh dấu màu xanh vào các ô tam giác, màu đỏ vào ô hình cung do cô chỉ định, rồi đố chúng tôi nhin ra đó là hình gì? Thì ra đó là hình “một con chim én đang bay về huớng mặt trời” (sau nầy là huy hiệu của trường), cô Huệ bảo đây là kỷ niệm của Thầy Điểu tặng làm kỷ niệm trước khi Thầy đổi đi (lúc đó bọn tôi chỉ nghe tên thôi, chứ không biết mặt Thầy).
Sang năm đệ ngủ (5P1) thì chúng tôi học ở dãy văn phòng, sát với Phòng Họp Giáo Sư. Năm dệ ngủ nầy, tụi tôi học Việt Văn với cô Trân, được vài tháng thì Thầy Tô Quốc thay cho cô nghĩ hộ sản. Học Toán với cô Mộng, nhưng cũng chỉ một tháng thì cô xin nghĩ để cùng chồng là dược sĩ Diệp hữu Tâm mở nhà thuốc Hữu Tâm, Thầy Nguyễn Hữu Long (Long lùn) thay cho cô Mộng, Thầy cũng dạy chúng tôi vài tháng thì Thầy chuyển về trường Mỹ Xuyên (mới mở tại Bãi Xào). Thầy Lê Ngọc Sơn, dạy Lý-Hóa vài tháng thì thuyên chuyển về quê ở Kiến Tường (Đồng Tháp).Thầy Lý Ngọc Hiếu (Hiếu La Thoại Tân) thay Thầy Sơn dạy chúng tôi môn Lý-Hóa cũng đến gần cuối niên khóa thì bị động viên. Cô Hường dạy môn Sử-Địa. Hôm Thầy Hiếu chia tay chúng tôi để lên đường tòng quân, cô Mười, dạy Lý-Hóa (?) cũng đến chia tay. Thế là mọi đứa học trò mặc sức mà “thêu hoa dệt lụa”. Cũng trong năm nầy, nhà trường tổ chức tất niên bằng cách tái tạo lại khung cảnh làng quê xưa (theo miền Bắc), trong đó có trò “đập niêu” (đập nồi đất). Khi dự thi thì tất cả các “thí sinh” đều bị bịt mắt, phải dùng một cây gậy tre dể đập bể nồi, có một em đập hụt nhiều lần nên đi lạc vào gần khu treo nồi, sợ em nầy bị bạn đập trúng nên Thầy Điểu (Điểu nhỏ) lao vào kéo ra thì Thầy lại bị Thuận lớp 7A2 đập trúng, cuôc thi đó kết quả là nồi không bể lại bể đầu Thầy !!!!!.
Cũng trong năm nầy, do nghỉ giữa giờ “hơi bị” nhiều nên bọn tôi thường ra trước cổng trường vào quán cà phê Bà Tư (lúc nầy quán chú Hai ở trong trường đã nghĩ bán), hoặc quây quanh 2 xe cà rem mút đậu trước cổng trường, hoặc vào đánh billard ở quán chi Tám xéo xéo cổng trường, có một nhóm nhỏ chơi “đập bạc cắc” (Thầy Trịnh Học Ký thường xuyên rượt bắt tụi tôi) cạnh phòng học dãy nhà Thầy Răng (cổng sau). Nơi đây bọn tôi đã chứng kiến cuộc tình của Thầy Sinh và chị Ánh (trong phòng học, lúc đó hình như chị đang học đệ tam hay đệ Nhị gì đó (?), vậy là bọn tôi phải kêu “Chị” bằng “Cô” !!!
Năm đệ tứ (4P1), chúng tôi học ở dãy đối diện với văn phòng, Thầy Nguyễn Tôn Bá dạy chúng tôi môn Sử-Địa, tụi tôi rất khoái vì Thầy dạy rất hấp dẫn, ấn tượng trong tôi còn nhớ đên bây giờ là hình ảnh của Thầy “ném viên phấn trên tay xuống đất, rồi ngây người nhìn bọn tôi qua đôi kính cận” khi câu chuyện đến cao trào. Nhưng hởi ôi! Thầy chỉ dạy bọn tôi võn vẹn có 2 tiếng rồi không dạy nữa : Thầy đổi về quê Thầy ở Kiến Hòa (Bến Tre), “tiếc đứt ruột !!!”. Trong năm nầy có 2 Thầy mới ra trường dạy tụi tôi: Thầy Lê Công Hoàng (Sử-Địa), thay Thầy Lê Công Đức nhận chức Phụ Tá Giám Học (phụ tá cho Thầy Vịnh), và Thầy Lợi Minh Hà dạy Lý-Hóa, Thầy Lê Xuân Vịnh dạy Việt Văn, Thầy Phạm Thế Trúc dạy Pháp Văn độ 1 hay 2 tháng gì đó thì đổi cho Thầy Nguyễn Thái Lân dạy, cũng 1,2 tháng gì đó thì Thầy Trần Phạm Hiếu thay thế làm “đầu bếp” món “cua xào lăn” cho đến hết năm học. Môn Công Dân Giáo Dục, đầu năm thì Thầy Hoàng Đình Diệp dạy được 2 tuần thì giao lại cho Thầy Mai Văn Kiêm phụ trách. Thầy Trần Thanh Thu dạy Vạn Vật.
Năm nầy, có nhiều sự kiện đáng nhớ:
- Một là đây là năm Mậu Thân, các Thầy phải tuần tự đi học quân sự 1 tháng tại Thất Sơn (Châu Đốc), nên bọn tôi thường nghĩ học giửa buổi, nghĩ học nhưng không có đứa nào về nhà, mà rủ nhau đi chơi. “Nhờ” đi chơi nhiều nên nghe các anh lớn tuổi trong lớp truyền nhau từ “Ngũ Long Công Chúa”. Theo “truyền thuyết kể lại” thì đó là các chị Lâm Hoàng Yến, Bạch Mai, Huỳnh Minh Nguyệt, Quách Hồng Lan, Trần Mỹ Hạnh đều học lớp 4P1. Còn lớp 4A1 thì có chị Dương Thị Liễu và vài chị nữa tôi không biết tên thường đại diện cho trường đi “làm ca sĩ” theo lời mời của bên Tâm Lý Chiến thuộc Tiểu Khu Ba Xuyên. Lúc nầy các chị đều “trổ mã” nên đi đâu cũng có vài cái đuôi theo “tò tò”.
- Hai là, trong năm nầy, quân đội Mỹ xây tặng cho trường 3 phòng học nằm ở khoảng sân giửa dãy Văn Phòng và dãy nhà của Thầy Phan Ngọc Răng. Đây là lần đầu tiên chúng tôi tận mắt thấy “người mắt xanh mũi lỏ”, có vài đứa còn lại gần “how are you?” rồi chạy mất, thấy họ xài cưa máy (cưa xích) để cưa-hạ các cây nằm trong phần đất cất các phòng học, dùng xe ủi đất từ xa lao nhanh vào cụng các gốc cây vài lần rồi bứng gốc, quả là họ có nhiều cách làm mới, lạ, nhanh quá, bọn “con nít” chúng tôi chưa từng thấy bao giờ.
- Ba là dù rằng chúng tôi “biết đá banh” từ lâu, nhưng cũng chỉ là nghiệp dư, tự phát. Khi Thầy Lợi Minh Hà về dạy, tập họp chúng tôi lại, thành lập một đội banh, do Thầy Hà làm “ông bầu”, rồi rủ các lớp khác đá giao hửu. cuối năm đệ tứ, tôi (giử “guun”, thủ môn), Hồ văn Thiện (trung phong), và Trần văn Quận (hậu vệ) được chọn đá dự bị cho đội tuyển cua trường.
- Bốn là năm nầy, Bộ Giáo Dục và Thanh Niên chính thức bỏ Kỳ Thi Trung Học Đệ Nhất Cấp. Đây là cái cửa ải mà những ai học Trung Học Đệ Nhất Cấp cũng ngán ngược.
- Năm là vào ngày đầu năm học, Thầy Trịnh Học Ký (Giám Thị) vào lớp thông báo: “Em Phạm Anh Dũng (Dũng Nam Mỹ) được phép dổi tên là Phạm Minh Dũng”. Chuyện đổi tên một người ngày nay là chuyện thường, nhưng ngày đó đối với chúng tôi thì đó là chuyện “to tát” lắm.
- Sáu là do biến cố Mậu Thân 68 nên luật Tổng Động Viên ra đời, những học sinh sinh năm 1951 trở về trước đang học đệ tứ không được học nữa chuẩn bị lên đường tòng quân. Vậy là có một số bạn bỏ trường sang tỉnh khác học nhảy (đệ tam hoặc đệ nhị) để khỏi đi lính. Cũng trong năm nầy, nam thanh niên đủ 16 tuổi thì phải khai Lược Giải Cá nhân, làm Căn Cước (thay vì 17 tuổi như trước).
- Bảy là trường thành lập Chương Trình Phát Triển Sinh Hoạt Học Đường, gọi tắt là CPS Hoàng Diệu, do Thầy Lê Văn Đức phụ trách. Chương trình CPS chuyên tổ chức học sinh thực hiện các công tác xã hội, vui chơi trong học đường . . . .
Lớp Của Tôi, Những Năm Đệ Nhị Cấp
Năm đệ Tam (3B1), vì đây là năm phân ban nên lớp 3B1 là học sinh học sinh ngữ Pháp Văn của các lớp 4P1, 4P2, 4P3 chọn ban Toán nhập vào 1 lớp, lớp chúng tôi họ ở dãy Văn Phòng..Đầu năm thì Thầy Trần Lộc dạy Toán, độ 1, 2 tháng thì Thầy Lâm Cộng Hưởng dạy, Thầy Ngô Trọng Bình dạy môn Anh Văn (sinh ngữ 2) ; 3 từ “English For Today” chắc là học sinh Hoàng Diệu ai cũng còn nhớ (nhất là học sinh khóa 64 – 71 trở về sau). Pháp Văn (sinh ngữ 1) thì Thầy Công, Thầy Công dạy độ 2 tháng thì thuyên chuyển về Bạc Liêu, Thầy Nguyễn Thái Lân (Lân Lambretta) dạy thay. Môn Công Dân thì do Thầy Nguyễn Đình Sinh phụ trách, rồi Thầy Đổ Như Thắng thay. Đây là lần đầu tiên lớp tôi có trai gái học chung. Ngày đó, học trò gái chọn ban “B” rất ít, đa phần chọn ban “A”, Tôi không nhớ rỏ là lớp tôi có bao nhiêu chị, nhưng nhớ là khi đó các chị ngồi không đầy 2 bàn (8 người). Đó là Chị Trịnh Khả Vân, Trần Mỹ Hạnh, Quách Hồng Lan, Huỳnh Minh Nguyệt, Huỳnh Xuân Huê, Văn Thanh Hồng . . . .Đến đây cũng xin nói thêm về chuyện vệ sinh lớp, ngay từ lớp đệ thất thì học sinh phải quét lớp mỗi ngày, mỗi ngày một đội. Đến năm đệ tam thì cũng vậy, lớp chia thành 6 đội, mỗi ngày một đội. Nên biết là lúc đó lớp học trang bị bàn ghế rời, không dính vào nhau như khi học tiểu học, lớp tôi chia ra như sau: bọn con trai chúng tôi làm việc nặng như khiêng bàn ghế, còn các chị gái thì làm việc nhẹ nhàng như quét lớp, do vậy, mỗi ngày bon con trai chúng tôi vào lớp có bổn phận là khiêng các băng ghế (4 người ngồi) lên để trên bàn cho các chị quét lớp, xong xuôi thì bọn con trai tôi khiêng để xuống và mang rác đi đổ, thế là xong!!! Rất là “hạnh phúc”!!!
Trong năm nầy, do ảnh hưởng của biến cố Mậu Thân nên các Thầy vẫn còn phải tiếp tục đi học quân sự ở Thất Sơn, và cũng do cái “truyền thống” “năm đệ tam là năm dưỡng sức” sau kỳ thi lấy bằng Trung Học (hồi các năm trước) để rồi năm sau (đệ nhị) phải mài sống chết để thi Tú Tài 1 (“tự là” Tú Tài Phần Thứ Nhất), nên bọn tôi học rất là nhàn nhã, lại còn cổ vũ cho cái “truyền thống” “năm đệ tam là năm ăn chơi” nên bọn tôi thường hay nghĩ học vì chưa có Giáo Sư, hoặc “cúp-cua” để đi Đại Ngãi uống cà phê tại một quán (lâu quá quên tên) ngắm cô hàng nước xinh đẹp! và nhất là tối nào cũng vào quán cà phê-nhạc Quên Đi bên hông Đình Năm Ông nghe những giọng ca vàng thời đó “ngân nga” nhạc Phạm Duy,Mùa Thu Chết, Lệ Đá . . . và nhất là bản gì lâu quá quên tên trong đó mở đầu là câu “em hỏi anh bao giờ trở lại, anh trả lời mai mốt anh về”.
Đầu niên học, có Thầy Cấn Phan Nhiếp đổi về trường dạy chúng tôi môn Vạn Vật. Chính thấy Nhiếp bày cho chúng tôi chơi môn bóng chuyền (từ trước đến nay trong trường không thấy chơi môn nầy), thành lập hẳn hòi một đội bóng chuyền, tập luyện, thi đấu, kết quả là trong năm nầy trường Hoàng Diệu (lần đầu tiên) giành chức vô địch môn bóng chuyền học sinh toàn tỉnh (và 3 năm liền tiếp theo). Còn về môn đá banh thì Thiện và Quận được đá chính thức trong đội banh của trường, con tôi thì vẫn là dự bị cho anh Bưởi (năm ấy học năm đệ nhất). Cũng xin nói thêm là khi ấy, Thầy Phan Ngọc Răng rất khoái các hoạt động thể thao, văn nghệ nên mỗi khi có thi đấu, nhất là môn đá banh Thầy thường cho cả trường nghĩ để đến sân ủng hộ đội nhà.
Năm đệ tam nầy, đến kỳ Đệ Nhị Lục Cá Nguyệt thì đổi tên gọi là Lớp 10, không còn gọi là lớp đệ tam nữa, vậy là lớp tôi đổi thành lớp 10B1. Đồng thời trường cũng xây thêm 3 phòng hoc nữa, nối theo 3 phòng quân đội Mỹ xây, trong đó có 1 phòng làm phòng Giám Thị, 2 phòng kia làm phòng học. Cũng trong năm nầy. Cầu Quay tỉnh lỵ bị đặt mìn phá hỏng nhịp cầu bên dường Hai Bà Trưng, chính quyền cho bắt cầu phao ngang sông để xe hai bánh và người đi bộ tạm thời qua lại. Vậy là bọn tôi có “đề tài mới” để vui đùa: bọn tôi rủ nhau cùng qua cầu, nhưng khi đến giửa cầu thì “hè nhau” cố tình đứng lại, vậy là cầu chìm (khi chúng tôi bỏ chạy, cầu chứa ít người thì tự động nỗi lại) khiến mọi người bị ướt quần la inh ỏi, nhất là các nữ sinh, còn chúng tôi thì rất là khoái chí!!!.
Năm đệ tam chúng tôi có thêm buổi học Quân Sự Hoc Đường vào chiều ngày thứ Bảy hằng tuần. Tất cả các học sinh học Quân Sự Học Đường măc đồng phục kaki vàng, đầu đội calo kaki vàng. Vậy là cứ mỗi chiều thứ bảy, trên đường phố tỉnh lỵ, tràn ngập “kaki vàng” trông cũng vui mắt. Địa điểm học là bải đất trống, sau lưng Văn Phòng. Trước đây là nơi chúng tôi tập nhảy cao và leo dây. Khi quân đội Mỹ cất 3 phòng học đã san lấp cho rộng ra tận Miểu Bà Hỏa, đồng thời tạo nên một cái ao chạy dài theo sân trường để chống ngập cho trường và làm ranh giới với dãy nhà dân. Phần dạy thì do các Thầy từ quân đội biệt phái về dạy: Thầy Phạm Văn Phái, Thầy Trần Khắc Thạnh, Thầy Lê Kim Tiết Tháo, Thầy Lê Vĩnh Tráng dạy, chủ yếu là cách chào, đi đều bước (lột-khoai-nhai-nuốt).
Gần cuối năm đệ tam (1969), CPS Hoàng Diệu tổ chức một buổi cắm trại, tối có đốt lửa trại, ca diễn văn nghệ. Phần lửa trại thì do Trương Kiến Dũng (10B1, đội viên của Gia Đình Phật Tử) phụ trách. Phần văn nghệ thì cũng rất xôm tụ do toàn là những “danh ca cây nhà lá vườn” phục vụ như: Dương thị Liễu, Sơn thị Liêng, Trương Ngọc Thủy, Sơn Xuân, Nguyễn Nhựt Điệp (Thủy, Xuân, Điệp học sau tôi 1 lớp) . . .Sáng hôm sau tổ chức đào hồ sen của trường (ngay lối đi vào, bên hông thư viện của trường), buổi trưa, Thầy Răng hào phóng cho bọn tôi ăn cơm dĩa do tiệm cơm Đại Hưng nổi tiếng tại tỉnh lỵ nấu. Sau đó nhà trường, cụ thể là Thầy Vịnh, bảo bọn tôi tìm người xây gạch chung quanh bờ hồ sen, tìm cây kiểng về trồng cho đẹp. Thế là tôi, Trương Kiến Dũng, Lê Thanh Tâm (10B1) và Nguyễn nhựt Điệp (9A2) xúm nhau xây bờ hồ, đi đến các chú xin cây kiểng về trồng. Có một hôm Thầy Vịnh ra “thị sát”, thấy vách bờ hồ không có tô xi măng, Thầy hỏi “sao tụi mầy không tô cho đẹp” bọn tôi nói là chỉ biết xây chứ không biết tô, Thầy phì cười nói “vậy mà tụi mầy cũng làm tàng!!” rồi bảo chú Khuôl kêu thợ lại tô các bờ hồ. Vậy là trường có một hồ sen xinh đẹp để các anh-chị-em mình chọn làm điểm “làm dáng” chụp hình lưu niệm. Tiếc là sau nầy người ta phá bỏ để “bê-tông hóa sân trường” cho nó sạch!!!!
Cũng trong niên học nầy, CPS Hoàng Diệu có tổ chức thi đấu bóng chuyền, bóng tròn, và giao lưu lửa trại với CPS Bạc Liêu. Bóng chuyền huề vì nửa chừng bóng bị xì, đội đá banh thắng.
Năm 11B1 (đệ nhị), năm nầy chúng tôi học ở phòng số 2, dãy phòng do quân đội Mỹ xây. Cô Nguyễn Thị Na (mới ra trường) dạy Vạn Vật, nhưng chưa đầy một tháng thì Thầy Nhiếp dạy thay (nguyên nhân cô Na không dạy nữa tôi sẽ nói sau ở phần viết về Thầy cô), Thầy Dương Minh Tự dạy Toán, Thầy Nguyễn Ngọc Long (Long cao) mới biệt phái về dạy Lý Hóa, Anh Văn do Thầy Cao Văn Bảy dạy, độ 1 tháng thì Thầy Hoàng Việt Sơn dạy thay, Sử Địa Thầy Lê Văn Đức dạy.
Trong năm nầy, khi hết niên học, CPS Hoàng Diệu có tổ chức một trại hè tại Vũng Tàu. Đồng thời có một chuyện buồn là Thầy Tô Quốc lìa đời (!) do bị nổ lựu đạn, khi Thầy đang dự một tiệc tại quán Hương Quê (ngang Hồ nước ngọt, cạnh Trạm Kiểm Soát Tài Nguyên (Control) của tỉnh).
Có một chuyện hi hữu là: ở lớp 11B2 có Quách Thành (quê ở Lịch Hội Thượng), không hiểu vì sao mà Thầy Lê Văn Đức lại phê học bạ rất xấu: “nên tìm bạn hiền mà chơi, tìm lương sư mà học”, đồng thời tuyên bố: “năm nay em mà đậu, tôi cõng em đi học”. Thế nhưng năm đó Thành lại dậu Tú Tài 1 (Thành đã rớt năm trước đó, năm nay học lại).
Trong năm nầy, Thầy Răng có một quyết định táo bạo là chọ thêm một số học sinh đang học tại các trường Tư thục trong tỉnh cho vào trường Hoàng Diệu Học, ưu tiên cho các học sinh có thành tích về Văn-Thể-Mỹ. Thầy giao cho bọn tôi (tôi, Hồ Văn Thiện, Trần Văn Quận) xem ai có năng khiếu (thể thao) như vậy thì lập danh sách giới thiệu cho Thầy xem xét. Năm đó lớp 11B1 có thêm nhiều học sinh tờ các trường tư trong tỉnh vào học như: Dương Học Võ, Dương Quang Thuần, Triệu Đoàn (đá banh), Châu Huỳnh Nga (điền kinh), Ngô thị Thiên, Dương thị Hồng Châu, Triệu thị Liêng, Trần thị Tuyết, Âu Thuận, Trần Thanh Xuân, Thái Hán Tôn (học sinh giỏi) và nhiều bạn vào các lớp khác tôi không nhớ hết.
Cũng năm học nầy, Thầy Răng đổi về Bộ Giáo Dục, Thầy Vịnh làm Hiệu Trưởng, Thầy Lê Văn Đức làm Giám Học, Thầy Trần Lộc làm Tổng Giám Thị.
Còn chuyện nầy, riêng cá nhân tôi thì không vui: Tuyết (họ gì tôi không nhớ, học dưới tôi 1 lớp), đến nhà tôi từ giã để về Sàigòn học, vì Ba của Tuyết phải đổi về Sàigòn, để gần gũi gia đình (cô của Tuyết là chủ hãng dệt, hình như là Covitex, hay Vinatex gì đó!). Đồng thời đề nghị: đổi huy chương vàng chạy nước rút 100 m của Tuyết lấy huy chương bạc nhảy cao của tôi để làm kỷ niệm. Tuyết là học sinh quán quân điền kinh 3 năm liền của trường trong các kỳ thi điền kinh cấp tỉnh (!). Vậy là tôi mất đi một đồng đội trong các kỳ thi thể thao: Tuyết chạy nước rút 100 m, 200 m, còn tôi thì nhảy cao, đá banh, bóng chuyền.
Trong năm nầy, phong trào phong trào thể thao trong toàn trường nổi lên rất mạnh, hầu như lớp nào cũng có môt đội bóng, không bóng đá thì bóng chuyền, bóng bàn. Cổ động viên nữ không còn dừng lại chổ “Trường cho nghĩ đi ủng hộ đội nhà” nữa, mà trận nào cũng có một vài “nữ cổ động viên” tự nguyện theo làm người mang thùng nước đá lạnh tiếp tế cho chúng tôi. Trong đó nổi lên 2 gương mặt là Trịnh Lệ Nhi và Phan Lệ Thúy (cả hai đều học sau tôi 1 lớp). Trận nào Hoàng Diệu thi đấu là có 2 nàng “Lệ” nầy theo “vô nước”, kể cả những lần theo Thầy Vịnh đi quyên tiền ủng hộ phát thưởng hay gây quỹ “Cây Mùa Xuân” cho trường (nhờ vậy mà tôi “dạn hơn”, “nhuần nhuyển hơn” trong việc tiếp xúc với “người khác phái”).
Sang năm 12B1, chúng tôi học ở dãy mới cất (sau lưng văn phòng) phòng số 1 (đối diện trường Phụ Huynh Học Sinh. Năm nầy Thầy Nguyễn Bình dạy Toán, Thầy Lâm Ngọc Linh dạy Lý Hóa, Triết – Thầy Đỗ Như Thắng, Anh Văn – Thầy Hoàng Việt Sơn, Pháp Văn – “Mademoiselle” Nguyễn Thị Kim Dung (vì cô còn độc thân!), Thầy Lê Kim Tiết Tháo Làm Tổng Giám Thị thay cho Thầy Trần Lộc. Dù là học lớp 12, nhưng bọn tôi vẫn phải theo nề nếp của trường là mỗi đầu giờ vẫn phải xếp hàng trước cửa lớp, chờ Thầy cô từ phòng Giáo Sư xuống cho vào thì mới được vào lớp, khi đi ngang mặt Thầy-cô thì phải cúi đầu chào, khi vào lớp phải đứng nghiêm, chờ khi nào Thầy-Cô cho phép thì mới được ngồi.
Năm nầy CPS Hoàng Diệu có tổ chức chuyến tham quan, thi đấu giao hửu môn đá banh, bóng chuyền, bóng bàn với CPS An Giang (trường Chưởng Binh Lể và trườngThoại Ngọc Hầu). kết quả là Hoàng Diệu thắng môn đá banh, bóng bàn, thua Thoại Ngoc Hầu môn bóng chuyền.
Trong chuyến đi nầy, có một điều thú vị là: trong đội bóng bàn của Angiang có một tuyển thủ cấp tỉnh hay cấp khu (4 tỉnh) gì đó, có lẽ là rất giỏi (bọn tôi nghe Ban Lãnh Đạo và học sinh Chưởng Binh Lễ kháo chuyện với nhau trong Câu Lạc Bộ của trường: “phen nầy Sóc Trăng lấy cần xé đựng banh đem về). Nhưng khi thi đấu thì Angiang thua ngoài sức tưỡng tượng. Các “ông bầu” của Angiang (khi ấy đứng cạnh tôi) hỏi “cái thằng ròm đó là ai mà chơi giỏi quá vậy?”. Tôi trả lời “nó đang học lớp 11 của trường Hoàng Diệu, tên của nó là Vương Chính Học”. Nghe xong ông ấy giật thót cả người, vì Vương Chính Học lúc đó là tuyển thủ Quốc Gia (vừa đoạt danh hiệu Vô Địch Thiếu Niên Toàn Quốc).
Năm lớp 12 nầy tôi vì mãi “rong chơi trên con đường tình ta đi” nên thi rớt Tú Tài 2 (“tự là” Tú Tài Toàn Phần), “đành” phải rời trường (người ta đậu Tú Tài 2 thì “ra trường” còn tôi không đậu nên không kể là “tốt nghiệp!!!!!) vào Trường Sư Phạm Sóc Trăng học.
Vậy là xong 7 năm học với nhiều kỷ niệm vui buồn, Tôi rời trường với "nỗi nhớ không nguôi".
"Phần Phụ Đề Việt Ngữ" Của Những Năm Đệ Nhị Cấp.
Vậy là xong 7 năm học với nhiều kỷ niệm vui buồn, bạn bè khóa tôi tôi đều phải rời Sóctrăng, rời xa Hoàng Diệu, đứa nào đậu thì lên Cần Thơ, Sàigòn học Đại học, đứa nào rớt thì lên đường nhập ngũ tòng chinh. Riêng tôi và một vài đứa may mắn là vào Sư Phạm Sóctrăng, học tại Trường Nam Tỉnh Lỵ nên “ngày ngày ta lại cầm tay nhau về” . . . trường, vào quán Cô Quốc chơi, ngồi uống ly trà đá ngắm “đàn em” đi học mà hồi tưỡng lại “những ngày xưa thân ái”.
Nhưng có lẽ duyên nợ với Hoàng Diệu vẫn còn nên tôi lại có dịp hoạt động cho trường, có cơ hội để “núm níu”một chút gì để nhớ để thương”.
Nguyên là năm đó (1972) là năm tôi học năm thứ nhất của trường Sư Phạm, thì Trương Kiến Dũng sang tìm tôi, bảo là Thầy Lê Công Đức (Giám Học) và Thầy Lê Vĩnh Tráng (Tổng Giám Thị) kêu về trường gặp có công chuyện.
Kỳ nầy CPS Hoàng Diệu phải tham dự một trại hè do Bộ Giáo Dục tổ chức cho học sinh toàn Quân Khu 4. Thành phần tham dự không chỉ là học sinh Hoàng Diệu, mà bao gồm cả học sinh TRUNG HỌC, TIỂU HỌC toàn tỉnh (các tỉnh khác cũng vậy). Do vậy trường chọn tôi và Trương Kiến Dũng làm phụ trách đoàn tiếp cho các Thầy trong Ban Chỉ Huy, Thầy Lợi Minh Hà làm Trưởng Đoàn, Thầy Phạm Văn Phái làm Phó Đoàn, các Ủy Viên là Thầy Võ Văn Thiên, Cô Lý Thị Chất (dạy Nư Công Gia Chánh) và một số Thầy cô trong Văn Phòng trường (tôi không nhớ tên).
Bọn tôi khởi hành lúc 9 giờ sáng, trên 4 xe hơi gồm 1 xe 7 chổ, một xe 16 chổ (2 xe nầy do Ty Tiểu Học cấp, chở ban chỉ huy và vật dụng hậu cần) , và 2 GMC chở trại sinh (xe do Tiểu Khu Baxuyên cấp), đến Bải Nò (Mũi Nai) Kiêngiang lúc 6 giờ chiều sau hơn 270 Km đường rất là xấu (đoạn đường Rạch Giá – Hà Tiên 90 km, đường do Công Binh làm, chỉ mới lấp các hố mìn, trải đá xong vào ngày hôm trước). Chuyện đầu tiên khi đến Bãi Nò là dựng lều cho Ban Chỉ Huy và gần 80 trại sinh nghĩ ngơi, làm nhà vệ sinh, nhà tắm để mọi người có chổ “giải quyết bầu tâm sự”. Cô Chất thì chỉ huy các Cô ở Văn Phòng trường đi theo đoàn nấu cơm cho mọi người ăn. Nhưng hởi ôi!!!! Các Cô chỉ quen nấu ăn trong gia đình thôi, đâu có ai biết chuyện nấu một nồi cơm cho trên 80 người ăn!?!? Kết quả là bửa cơm đó các trại sinh không ai ăn được vì cơm thì “trên sống, dưới khét, chính giửa thì nhảo”. Đồ ăn thì vì mình đến nơi trể quá, đi chợ mua “cá không tuơi” nên khi ăn “có mùi”. Cũng may là bằng kinh nghiệm dự trại, tôi và Dũng đã bảo các em, nhất là các em tiểu học, mang theo mì gói để “hộ thân”, nên chúng tôi không bị đói. Chuyện “cơm ba tầng” còn lập lại vào sáng ngày hôm sau nữa (khi đi thăm Lăng Mạc Cửu), bọn tôi đề nghị lãnh đạo trại bỏ chuyện nầy, nhưng không được, sau cùng cũng bị bãi bỏ khi có sự đấu tranh quyết liệt của Thầy Thiên.
Sáng sớm hôm sau, một cảnh tượng buồn cười xảy ra: các cô nàng mang chén, dĩa, muỗng (kiểu), có cả bình thủy nữa ra bỏ ở các gốc dừa dọc bải biển nhiều không kể hết!!! Người bỏ nhiều nhất là Liêu Thị Kiều Nga (con gái của Đại Tá Tỉnh Trưởng Liêu Quang Nghĩa). Trước khi đi chúng tôi đã dặn các trại sinh nên mang theo bi-dong, gà-mèn (bằng inox của lính) theo để sử dụng, vừa gọn vừa an toàn.
Đến khoảng 10 giờ, thì có tin Đại Tá Tỉnh Trưởng Kiên Giang đến thăm Trại Hè. Do trại Sóc Trăng nằm ở vị trí đầu tiên nên được thăm trước, khi vừa bước vào cổng trại, chào xã giao với Ban Chỉ Huy Trại xong là Đại Tá đề nghị dẩn đi thăm khu nhà vệ sinh trước. Khi đưa Đại Tá vào nhà vệ sinh thì cả tốp hướng dẩn đều hết hồn: nhà vệ sinh và nhà tắm đều dựng bằng băng-rôle vải (mỗi phòng 3 tấm) “Kính Chào Mừng Đại Tá Tỉnh Trưởng Đến Dự”. Đại Tá hỏi “Khu nhà vệ sinh nầy ai làm mà kín đáo vậy?!!” Trong lúc mọi người, nhất là Ban Chỉ Huy Trại, còn đang “run”, nghe hỏi thì lí nhí trả lời là do các trại sinh làm, thì Đại Tá Tỉnh Trưởng cười xòa, quay lại hỏi bọn tôi đang lóng ngóng bên ngoài hỏi: “Sao mấy em biết Đại Tá vào đây mà chào đón vậy!!!!”. Hỏi xong, Đại Tá mới đi ra bên ngoài, xem cổng chào, bàn ăn thiết kế bằng toàn là tre, theo kiểu (treo) không có cây tre nào chạm đất (do Trương Kiến Dũng “học được” khi tham gia Gia Đình Phật Tử). Sau đó Sóc Trăng được chấm hạng nhất về Lều Trại kèm theo giấy khen của Đại Tá Tỉnh Trưởng.
Chuyện “Chào Mừng Đại Tá” trong nhà vệ sinh là như vầy: trước ngày ra đi, chúng tôi vào kho phế liệu của trường gom các tấm băng-rôle củ cất trong kho đem theo để làm vách nhà vệ sinh khi cắm trại, không ngờ lại lấy nhầm toàn là các băng-rôle treo chào mừng Đại Tá Tỉnh Trưởng (Baxuyên) đến dự trong các buổi lễ của trường (!!!!!). Lúc vừa đến Bải Nò thì trời tối rồi, phải đốt đèn cầy để dựng nên không ai để ý nên mới xảy ra cớ sự.
Trong lần cắm trại nầy, ngoài chuyện chào mừng Đại Tá được loan truyền, Sóc Trăng được nổi tiếng vì các chuyện sau:
1- Trước ngày lên đường, tất cả các trại sinh đều được lệnh phải trang bị mỗi em một nón màu đỏ. Mục đích là dể dàng cứu hộ khi tắm biển (nón trôi trên biển là có người bị đuối nước), hai là dể nhận ra đâu là trại viên của Sóctrăng và của các tỉnh khác, ba là tung nón lên trời trong mọi trường hợp cần đồng đội “cứu viện”. Do vậy, mổi khi đoàn Sóctrăng ghé vào nơi nào thì nơi đó rực lên một màu đỏ, khiến mọi người phải kinh ngạc!!.
2- Trong tất cả các đoàn, chỉ mỗi mình Sóctrăng là có xe riêng nằm túc trực tại chổ để đưa rước trại sinh bất kể ngày hay đêm, do vậy đoàn Sóctrăng đi chơi thoải mái.
3- Trong khi các đoàn khác mãi miết lo chuyện nấu cơm cho trại sinh ăn thì đoàn Sóctrăng có cách giải quyết rất khoa học: gạo mang theo đem đi bán, cộng vào tiền ăn, buổi sáng ăn bánh mì cá mòi tại chổ tham quan, chiều ra chợ Hà Tiên ăn cơm tiệm. Trong khi chờ đợi cả đoàn ăn xong, ai ăn rồi trước thì ra xe, mang các cây tre trên xe xuống tổ chức “nhảy xạp” ngay trên lề đường. Do vậy chiều nào cũng có mấy chục cái nón đỏ nhảy múa, cộng thêm tiếng gỏ nhịp “cắc-cắc-cụp” của các thanh tre tạo nên sự huyên náo trên đường phố Hà Tiên.
Trong lần tham dự trại hè nầy, cá nhân tôi còn kiều kỷ niệm sâu sắc:
Một là, trong ngày thứ hai khi đến Bải Nò, tôi gặp lại Thầy Nguyễn Ngọc Long (Long Cao), khi ấy Thầy là Phụ Tá (Phó) Sở Học Chánh Tỉnh Vĩnh Long đưa đoàn đi dự trại Hè. Thầy trò gặp nhau nơi xứ lạ quê người rất là mừng rở. Sau một hồi hàn huyên tâm sự, Thầy từ giả cả bọn để về Vỉnh Long (vì Thầy không nằm trong Ban Chỉ Huy Trại Vỉnh Long). Kể từ lần gặp đó cho tới khi Thầy mất (sau 1975) tôi không gặp Thầy lần nào nữa!!!!
Hai là, sẳn xe, không biết ai chỉ dẩn, mà đoàn lại sang Cambodge chơi, khi dừng chân ở trạm biên phòng để xin phép, thì chúng tôi được căn dặn là “khi sang Miên chơi, không được để lộ tất cả những gì là màu đỏ kẻo bị Khmer đỏ bắn tỉa?!
Ba là, khi ở Bãi Nò hai hôm thì tối hôm thứ hai có một cơn bảo đổ vào Hà Tiên. Nói đến đây tôi giờ cũng còn thấy buồn. Không biết gì lý do gì, mà trong cơn nguy cấp đó, không thấy bóng dáng của Ban Chỉ Huy Trại và 2 xe dân sự đâu cả, tôi và Dũng phải lo chỉ huy sắp xếp cho các trại sinh di tản. Đang lúc lay quay thì Thầy Thiên xuất hiện, vẽ mặt buồn bả bảo “chúng ta phải tự lo thôi em ạ!!”. Nhìn Thầy khó nhọc đi lại, chúng tôi nói mãi Thầy mới chịu lên xe GMC ngồi để tụi tôi điều động trại sinh thu gom mọi thứ mang lên xe về trường Tiểu Học Hà Tiên tránh bảo. Đến đây, tôi cũng trân trọng tấm lòng của 2 bác tài xế (lính quân vận) đã tận tình cùng chúng tôi trong lúc chạy bão, tất cả vật gì nặng 2 bác ấy đều làm, tự 2 bác ấy cởi trần vác mười mấy bao gạo (100kg/bao) lên xe (không có 2 bác ấy thì “ai mà vác cho nỗi”).
Ông bà ta ngày xưa có câu “ở hiền thì gặp lành”, câu nầy ứng nghiệm ngay trong lần nầy: trong khi “di tản chiến thuật” bọn chúng tôi dọn lều của Ban Chỉ Huy Trại thì phát giác trong lều ngoài số gạo dự trử, còn có hai (02) thùng sữa bò, 10 thùng mì gói Vị Hương (loại gói giấy thời đó chỉ có 1 loại duy nhất, và là hàng quý hiếm thời đó!!!). Về đến Hà Tiên, gạo thì giao trả cho Ban Chỉ Huy, sữa và mì gói thì “coi như là chiến lợi phẩm”, bọn tôi chia nhau “xực”.
Đến đây, tôi cũng xin được “tào lao” một chút, trong những ngày ỏ Bãi Nò khi đi chơi, tôi nhận thấy có một nữ sinh khi đi chơi thì luôn luôn cúi gập người xuống để nhìn đường, hỏi ra thì em ấy bị cận thị, khi đi đường đi bị bể kính, vứt vào chung với đống chén dĩa bể rồi, nên không thấy đường!!!! Vậy là tôi phải giúp em đó bằng cách cho em đó vịn vai tôi để đi, sau tôi nhờ vài em nữa giúp cho em ấy. Thế là chúng tôi hình thành một nhóm “fan Bãi Nò” gồm Liêu thị Kiều Nga (Nga Gà Mờ, cận bị bể kiến), Trương Kiến Dũng, Trần văn Trung (Trung Kim Anh), Thiềm Bửu Cát Tâm, Nguyễn thị Liên, Hứa Lý Hương, và Thanh Vân (không nhớ họ, em vợ Thầy Hoàng Việt Sơn) và tôi.
Số “chiến lợi phẩm” thu được tôi “tính sổ” như sau:
- Hai thùng mì và 10 hộp sữa biếu 2 bác lính tài xế 2 xe GMC. 7 đứa nhóm tôi giữ lại 2 thùng mì và số sữa còn lại để “làm của riêng”. Các thùng mì còn lại chia cho các trại sinh khác nấu ăn tối trong bửa chạy bảo tại Hà Tiên.
- “Phần tang vật”, chúng tôi “tẩu tán” như sau: tôi và Kiều Nga mang quần áo cá nhân giao cho mấy đứa khác cất, bọn tôi lấy “tang vật” cất vào vali của bọn tôi (vì tôi và Kiều Nga được coi là ngoài vòng ảnh hưởng nếu vụ việc bại lộ, các em khác còn học tại Hoàng Diệu nên tôi không muốn để bị liên lụy). Vả lại vali của Kiều Nga rất to, chứa 4 thùng mì, 01 thùng sữa (đã “phi tang” võ thùng) mà vẫn còn trống.
- Vậy là 7 đứa bọn tôi sáng thì “mì tôm, sữa bò”, tối thì “sữa bò, mì tôm”. Chúng tôi mời Thầy Thiên ăn mì gói, cà phê sữa, Thầy khen ngon, hỏi “sao tụi mầy sang vậy?” nói cho Thầy nghe nguồn gốc của mấy “món ngon”, cười bảo “tụi mầy đúng là thứ ba học trò”, nhưng sau có mời mấy Thầy cũng xua tay từ chối “thôi tụi mầy ăn đi, tụi nó mà biết tao có dính líu thì không hay lắm đâu”
Trong những ngày ở trại, có lẽ là “nhờ bà cậu” dẩn nên tôi là tay săn nước ngọt cho cả bọn. Chuyện là như vầy:
- Trong những ngày ở Bãi Nò và trong trường Tiểu Học Hà Tiên, nước ngọt rất là “quý hiếm”. Khi ở bãi biển, nước ngọt được các xe bồn lấy trên đỉnh núi cách Trại khoảng 10 Km đường núi, kéo về phát cho các trại mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10 thùng 20 lít/thùng, để uống, làm vệ sinh cá nhân buổi sáng và sau mỗi lần tắm biển (mỗi em 4 lít/ngày). Sau khi cấp phát xong thì khóa vòi (bằng ống khóa) rồi các bác tài về nghĩ. Kỳ sau, lái xe nước khác đến, chạy xe nước đã phát, đậu trong bãi xe về lấy xe nước khác.
Trùng hợp là bãi xe nằm cạnh trại Sóc Trăng, thế là tôi ra mở khóa (bằng sợi dây kẻm), lấy nước còn lại trong xe mang vào chứa trong lều. Do vậy mà các trại sinh Sóctrăng rất là thoải mái trong việc sử dụng nước ngọt, kể cả sau khi tắm biển xong.
- Trong những ngày “tị nạn” ở trường Tiêu Học Hà Tiên, trường có một hồ nước mưa rất lớn, nhưng vì là kỳ nghĩ hè, nên hồ nước nầy của trường lại bị một nhà cạnh trường chiếm dụng, các trại sinh, nhất là các em nữ, rất là khổ sở vào buổi sáng đầu tiên khi vào tránh bảo. Các em chạy lại cho tôi hay, khi đến nơi, tôi phát hiện: vòi nước của hồ mở không có nước, tấm dal che miệng hồ bị khóa bằng ống khóa không mở được, chỉ he hé được một khoảng nhỏ để các em cột một cái ca nhỏ thòng xuống kéo lên từ ca một để chia nhau súc miệng. Tôi lại mở khóa (bằng sợi dây kẻm), nhìn vào đáy hồ thì thấy có val khóa rô-bi-nê, thì ra vòi nước bị khóa từ bên trong nên không chảy, vậy là xong, nước được cung cấp đầy đủ cho trại sinh (nhà bên cạnh tỏ ra không vừa ý nhưng không biết làm sao vì khóa thì lại bị mở).
Sau nầy về Sóctrăng, bọn tôi cũng còn giữ liên lạc với nhau (kéo dài đến năm 1975). Cứ đêm Trung Thu thì “cầm tay nhau về” quán Kinh Đô ăn bánh Trung Thu (loại đặc biệt!!!!) do Kiều Nga lấy từ “Dinh” mang đến, đồng thời ngồi xem các em nhỏ “cộ” đèn đón trăng rằm.
- Trở lại chuyến đi Hà Tiên, trong lần giao lưu lửa trại với một duyên đoàn Hải Quân đóng tại Rạch Giá (tôi không còn nhớ là Duyên Đoàn nào), sau phần sinh hoạt cộng đồng do một anh Trung Úy Hải Quân (tên gì tôi quên mất) làm Quản Trò, phần đáp lể do Trương Kiến Dũng làm Quản Trò cũng rất xôm tụ, anh Trung Úy nầy rất khoái (đồng thời cũng “khoái” một chị trong đoàn Sóctrăng, học một "cở" với tôi), bèn dẩn chúng tôi vào gặp Thiếu Tá Duyên Đoàn Trưởng để xin phương tiện đi đảo Chuối (nơi trồng toàn là chuối) chơi, sau một hồi ca bài “lý con sáo” của anh Trung Úy, Thiếu Tá đồng ý và dặn anh Trung Úy là chuẩn bị đầy đủ võng cho các trại sinh nằm trên tàu, khi đi biển, để không bị say sóng. Thế nhưng vì lý do rất là “cá nhân”, lãnh đạo đoàn Sóctrăng từ chối. Mất chuyến đi thú vị, chúng tôi tiếc “đứt ruột” nhưng biết làm sao bây giờ!!!! Nhưng cũng “gở lại được một bàn”: chuyến du ngoạn Đông Hồ dưới ánh trăng bằng tàu Hải Quân.
Vậy là thời gian thơ mộng của tôi với Hoàng Diệu “thôi thế là chia ly từ đây (dù rằng tôi cũng thường vào trường chơi, nhưng chỉ ngồi ở quán Cô Quốc chơi thôi!)
Các Thầy Cô Của Tôi:
Trong suốt “tuổi học trò”, tuy là học với nhiều Thầy-Cô, “chung đụng” nhiều bạn, nhưng bao giờ cũng chỉ có vài Thầy-Cô, vài ngườì bạn mà mình nhớ mãi (tôi nghĩ chắc là ai cũng như “tui”?!):
1- Cô Nguyễn Thị Na (dạy Vạn-Vật), như trên đã nói, Cô Na chỉ dạy chúng tôi không đầy một tháng, nhưng trong tôi từ đó đến nay luôn nhớ về Cô. Chuyện là như vầy: khi lần đầu tiên cô nhận giờ ở lớp tôi (11B1), bọn con trai chúng tôi đứa nào cũng “ngẩn ngơ”, không hẳn là đẹp, nhưng cô trông rất trẻ. Thế là bọn con trai chúng tôi không hẹn mà đứa nào cũng xưng “con” với cô lại đệm thêm mấy từ “dạ kính thưa cô” mỗi khi bắt đầu trả lời Cô về một câu nào đó. Nhìn vẻ ngượng ngùng của Cô khi nghe chúng tôi xưng “con” chúng tôi lại càng làm tới hơn, kết quả là Cô không dạy chúng tôi nữa. Lúc đó, vì còn tính háo thắng, nên chúng tôi không có đứa nào bận tâm, thậm chí có đứa còn đổ thừa là tại Cô “yếu bóng vía” bọn tôi “chỉ đùa cho vui thôi mà”.
Nhưng sau nầy khi vào Trường Sư Phạm tôi mới thấm thía cái buồn của Cô, định tìm Cô xin lỗi thì Cô không còn dạy ở Sóctrăng nữa.
“Niềm ray rứt khôn nguôi” nầy còn đeo đuổi theo tôi cho đến bây giờ, và mong rằng có dịp, hoặc có “ai đó” gặp lại Cô thì “hãy nói dùm tôi” “Lời Xin Lỗi Muộn Màng” của tôi.
2- Thầy Nguyễn Ngọc Long, trong tất cả các Thầy tôi “thọ giáo” thì Thầy Long là người tôi lưu luyến nhất, tính cách của Thầy khi lên lớp được tôi bắt chước rập khuôn khi đi dạy: ngồi trên bàn khi giảng bài, không bao giờ phê học bạ xấu cho học sinh (khi tôi dạy thêm giờ tại Trường Tỉnh Hạt). Kỷ niệm sâu sắc của tôi về Thầy là sau gần 4 năm nhập ngũ, khi trở về trường dạy, giờ đầu tiên khi vào lớp (11B1) Thầy hỏi tên từng “em” trong lớp nhưng khi đến tôi thì Thầy nói “Hào, lúc nầy tiến bộ chưa?”. Cả lớp thắc mắc hỏi “Sao Thầy nhớ có mỗi mình nó vậy?”, Thầy Long trả lời (sau câu trả lời của Thầy tôi không biết trốn vào đâu nữa!! nhưng lại rất “tự hào”): “khi tôi dạy năm đệ lục, chỉ trong vòng 15 phút đầu giờ là nó phải bị quỳ gối về tội nói chuyện trong lớp, nên tôi nhớ!!!!”.
Trong giờ dạy Thầy rất nghiêm túc, nhưng sau giờ dạy thì Thầy đối với tôi và Trương Kiến Dũng như anh em, nhất là sau mỗi ván bóng chuyền, mấy Thầy trò chia nhau từng điếu Capstan “còng queo” trong túi để hút bên “xô” đá lạnh.
Sau ngày 30/4/75, khi nghe tin mấy Thầy đi học chính trị dành cho Giáo Chức tại Trường Providence Cần Thơ (gần Đài Phát Thanh Truyền Hình TP. Cần Thơ hiện giờ, lúc đó tôi cũng học chính trị tại điểm Trường Đại Học Cần Thơ) tôi chạy qua thăm Thầy, nhưng không gặp, chỉ gặp Thầy Lợi Minh Hà, và được cho biết là Thầy Long không được cho đi học vì là Phụ Tá Giám Đốc Sở Học Chính Vỉnh Long (tương đương Phó Giám Đốc).
Buồn quá!!!!
3- Thầy Phan Ngọc Răng, tôi chưa từng học với Thầy giờ nào, chỉ trò chuyện với Thầy mỗi khi có hoạt động văn nghệ, thể thao, hoặc làm “lon ton” trên văn phòng, nhưng ấn tượng Thầy để lại trong tôi là “anh hùng”, “quân tử”. Thầy cũng rất hiểu chuyện, không câu nệ: khi biết 3 đứa tôi (tôi, Kiến Dũng, Lê thanh Tâm) hút thuốc Thầy kêu 3 đứa lại bảo “tụi mầy có hút thuốc thì vào phòng “tao” mà hút, đừng đi loanh quanh trong trường để tụi nhỏ bắt chước, và để Thầy Quốc khỏi phải khó xữ”.
Tôi xin được ghi lại đây chuyện “anh hùng” (theo ý cá nhân tôi) của Thầy:
- Năm tôi học đệ Tam, có một nữ sinh (xin không nói tên) học lớp đệ Tứ có ý phê bình Thầy trên tờ “Bích Báo” của lớp. Thầy xuống lớp hỏi ai viết bài báo đó, lập tức “tác giả” bài báo đứng lên nhận. Thầy bảo “ngồi xuống” rồi ra khỏi lớp, không buồn hỏi tên. Lúc rảnh rỗi, tôi có hỏi Thầy về trường hợp đó (vì nghe có tin là Hội Đồng Kỷ Luật sắp họp để đuổi học tác giả bài báo) thì Thầy trả lời là “nó dám làm, dám chịu, rất anh hùng, bỏ qua”, vậy là em đó vẫn tiếp tục học, sau nầy trở thành cô giáo (chung khóa Sư Phạm với tôi).
- Năm đệ Nhị, như trên tôi đã nói ai sinh từ năm 1951 trở về trước đang học năm đệ nhị thì không được học nữa, phải vào “Đồng Đế” mà học (đi lính). Vậy mà Trần văn Quận vẫn học tại lớp 11B1, rồi 12B1, thi 2 kỳ Tú Tài bình thường. Sau nầy tôi mới biết là trong thời gian đó Quận là “lính ma” của Liên Đội 22 đóng tại Đại Ngãi, Thầy biết, nhưng vẫn cho Quận học, sinh hoạt thể thao như thể là không có chuyện gì xảy ra.
Sau nầy, mỗi khi bạn bè tụ lại “đấu láo”, Quận thường hay nói “nếu không có “Ông” Răng thì không có Quận như ngày hôm nay ngồi đây, mà có lẽ là đã ngồi trên bàn thờ từ lâu rồi!!!”.
- Năm tôi học Sư Phạm (1972 – 1973), lúc đó Cô Quốc (vợ Thầy Tô Quốc, đã mất) được tin Hội Phụ Huynh Học Sinh của Trường lấy Câu Lạc Bộ lại để Hội kinh doanh gây quỹ Hội, Cô Quốc không được bán nữa, Cô Quốc lo lắm, vì các con còn quá nhỏ, thân Cô lại đang cảnh góa bụa. Đang lúc “rầu rĩ” thì Thầy Răng đi thanh tra ở An Xuyên (Cà Mau) về ghé nhà Thầy Hưởng chơi, trong bửa cơm gia đình, Cô Hưởng “mách nước” “Chị Quốc có gì khổ tâm thì nói cho Anh Răng nghe đi”. Sau khi biết sự tình, Thầy Răng “xé” vội một tờ lịch trên bàn, ghi vào đó 02 số điện thoại rồi nói “đây là 2 số điện thoại, số trên là số tại Văn Phòng của tôi, số dưới là số nhà riêng, “THẰNG” nào không cho chị bán nữa, chị gọi cho tôi 1 trong 2 số nầy, bảo đãm là 24 tiếng đồng hồ sau “NÓ” về Cà Mau dạy”. Xong Thầy quay sang Thầy Hưởng (lúc đó là Hiệu Trưởng), đang lấy 1 phòng cuối dãy ngang làm nhà, vì lúc đó dãy có nhà dành cho Hiệu Trưởng đã giao cho Sở Học Chánh làm văn phòng, nói “Anh Hưởng à! Anh Quốc chết khi còn đương chức (Tổng Giám Thị) mình phải giúp gia đình anh ấy, con anh Quốc phải ưu tiên vào Hoàng Diệu học”. Sau đó thì Cô Quốc vẫn tiếp tục bán cho đến 30/4.
Sau năm 1975, lần đầu biết lại tin Thầy, tin Thầy mất, là do Trần văn Quận thông báo!!
4- Thầy Võ Văn Thiên, đã là học sinh Hoàng Diệu, thì không mấy ai không biết “nhạc sư” Thiên. Phải nó trong nhóm học trò Hoàng Diệu, chắc có lẽ tôi và một vài bạn thôi, là học với Thầy Thiên lâu nhất, vì sau 4 năm học Đệ Nhất Cấp tại Hoàng Diệu, tôi lại được Thầy dạy thêm 2 năm tại trường Sư Phạm Sóc Trăng.
Trong suốt thời gian học với Thầy, tôi chưa từng thấy Thầy to tiếng với đứa nào bao giờ, lắm lúc giận quá thì chỉ “hừ hừ” trong miệng vài lần rồi thôi, không để bụng. Lúc nào cũng đối xữ với học trò như cha đối với con.
Hình bóng Thầy đậm mãi trong tôi, và chắc có nhiều anh-chị khác nữa, là lúc Thầy chỉ huy dàn đồng ca của trường trong các buổi lể, nhất là khi Thầy đánh nhịp bài “Khỏe Vì Nước”.
5- Thầy Lê Xuân Vịnh, ngoài những năm tôi học với Thầy tại Hoàng Diệu, tôi còn học với Thầy vào năm thứ nhất tại trường Sư Phạm, tôi nhớ nhất nơi Thầy là “tay trái chống nạnh, tay phải chụm lại rồi xòe ra như hoa nở, đoạn đưa tay lên sửa lại cặp kiếng, khi đôi mắt đang nheo nheo”, con người lúc nào cũng lo cho công việc, đôi khi vì quá lo cho công việc mà chuốc lấy cái không may vào thân!!. Đứa nào có lầm lỗi thì Thầy thẳng tay quát mắng rồi bỏ qua, không kỷ luật nặng đứa nào.
6- Thầy Tô Quốc, trong tất cả các Giáo Sư của trường (mà tôi biết) Thầy Tô Quốc, có thể được coi như là người được kính trọng, yêu mến của cả học sinh, đồng nghiệp. Thầy lúc nào trông cũng nghiêm nghị, ít cười, ít nói, sống rất “khép kín”. Tuy nhiên, khi gần Thầy lâu mới “thấy vậy mà không phải vậy”. Khi có đứa nào phạm lỗi, Thầy rất nghiêm khắc phê bình, rầy la mà thời đó bọn tôi nói đùa là “tụng cho một thời kinh” (giảng dạy rất lâu), nhưng sau đó rôi thôi, không để tâm, không phê học bạ xấu, không thành kiến với học trò phạm lỗi. Trong các cuộc họp Hội Đồng Kỷ Luật của trường, bao giờ Thầy cũng nói đỡ cho “tội nhân”.
Tiện đây tôi cũng “mạn phép” kể ra câu chuyện nầy:
Năm đó là năm tôi học lớp 11, vào đầu năm học, nhà trường có họp để xét trao học bổng cho các học sinh giỏi. Trong khi duyệt xét thì đến em gái tôi (đang học lớp 8) thì có một Thầy (xin phép không nêu tên) đứng lên phản đối, khi được hỏi lý do, thì lại đưa ra một lý do rất là “tào lao cốt chí”: “(vì) nó là em của Lý văn Hào” (!?!?). Trong khi các Thầy-Cô trong Hội Đồng con đang “ngơ ngác” thì Thầy Quốc nói ngay: “tôi phản đối lý do đó, vì tội ai làm thì nấy chịu, không thể thằng anh ăn mặn mà con em khát nước được. Vã lại, Hào nó tuy có nghịch phá, cũng là chuyện thường của tuổi học trò thôi, cũng chưa nghe Vị nào trong Hội Đồng Giáo Sư phàn nàn, và cũng chưa bị kỷ luật lần nào”. Trong khi các Thầy-Cô còn đang phân vân (vì ngại làm phiền lòng đồng nghiệp!) thì Thầy Quốc “hội ý” với Thầy Răng, sau đó Thầy Răng thuyết phục Hội Đồng, và nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng chấp thuận cấp học bổng cho em tôi.
7- Thầy Nguyễn Bình, tôi biết Thầy Nguyễn Bình đã lâu, nhưng mãi đến năm lớp 12 mới học với Thầy. Năm nầy, vì mãi lo “quyét dọn Con Đường Có Lá Me Bay” nên tôi ít tiếp xúc với Thầy, thậm chí còn “cúp-cua” nữa. Thầy sống rất tình cảm, đứa nào chậm trể học phí khi học “lò” Đồng Tiến thì Thầy đều can thiệp cho chậm trả để khỏi lỡ việc học.
Hình như tôi với Thầy có duyên nợ hay sao đấy mà tôi gặp lại Thầy trong 2 trường hợp hi hửu sau:
- Lần đầu, năm 1972, khi đó tôi học năm thứ nhất Sư Phạm, về trường dự thi Tú Tài 2 lần “thứ 3” (diện thí sinh tự do). Có một nữ sinh (không tiện nêu tên) học rất giỏi, nhà ở Bãi Xào, vào buổi chiều thi chót (môn Vạn Vật) em đó vào trể giờ (phong bì đề thi đã xé) Giám Thị phòng không cho em vào thi (vậy là phải rớt), tôi lên “năn nỉ” dùm mãi mà Cô Giám Thị vẫn không đồng ý. May sao! Lúc đó Thầy Bình (là Giám Thị Hành Lang) đi đến, tôi chạy lại “trình bày” câu chuyện với Thầy, Thầy hỏi 2 vị Giám Thị Phòng “đề thi phát ra chưa?” khi biết là chỉ mới xé niêm phong, chưa phát đề, Thầy bảo “thôi cho nó vào thi đi, tội nghiệp nó”. Kỳ đó em đó đậu, lại đậu cao nữa!!!
- Lần thứ hai, năm 1974, tôi lại về trường thi Tú Tài 2 lần “thứ 9” (mỗi năm có 2 lần thi Tú Tài 2, riêng 2 năm 72 và 73 mỗi năm thêm 1 khóa, Bộ thì thông báo là giúp học sinh, còn bên ngoài thì cho là vì con các ông lớn rớt dữ quá nên mở thêm để cứu). Năm nầy là năm đầu tiên tổ chức thi các môn dưới hình thức Trắc Nghiệm, chấm bằng máy IBM (nên “người bình dân” gọi là Tú Tài IBM!!!) nên cách điền biểu mẩu rất là rắc rối, “trịch” một chút là máy loại ngay (chấm rớt). Năm nầy tôi đã đi dạy học rồi, mà thời đó mỗi khi có “gác” (gác thi, gác bầu cử) thì giao cho “Thầy-Cô-Giáo”, do vậy trước ngày gác thi, tôi được Sở Học Chánh đưa Sự Vụ Lệnh cử đi gác thi (làm Giám Thị Phòng), gọi về Sở hướng dẩn cặn kẻ việc ghi biểu mẫu. Nhưng vì tôi “mắc” phải đi thi nên không đi gác thi được.
Ngày vào phòng thi, Cô (lại là cô nữa!) giám thị phòng lên bảng hướng dẩn cho các thí sinh điền biểu mẫu. Tôi còn nhớ Cô nầy là Giáo Sư Công Nhật (đậu Tú Tài 2 không tốt nghiệp từ trường Sư Phạm, xin dạy giờ trường Tỉnh Hạt ở Long Phú), không có đi “tập huấn” ở Sở Học Chính. Chỉ nghe hướng dẩn ở Phòng Hội Đồng Thi ngay trước giờ gác thi, nên hướng dẩn không đúng. Tôi có nói nhỏ với Cô là “Cô hướng dẩn chưa đúng” thì bị nạt “em là thí sinh mà em giỏi hơn tôi là Giám Thị sao?”. Thời may, khi đó có Thầy Giám Thị Hành Lang (lại là Thầy Nguyễn Bình!!) đi đến, Cô Giám Thị chạy ra hỏi thì quả là cô ấy sai. Sau khi “chỉnh lý” xong, Cô đi lại hỏi tôi “sao em biết tôi sai vậy?”, lúc nầy tự nhiên “máu cà rởn” trong tôi lại nổi lên: “dạ không dấu gì Cô, trong túi “Con” một bên là Sự Vụ Lịnh đi gác thi, một bên là Phiếu Báo Danh nên “Con” biết!!!”.
Năm đó tôi đậu “Tú Tài IBM”. Không biết khi so với Ông Tú Xương (. . . tám khoa chưa khỏi phạm trường quy . . .) thì sao nhĩ!?!?
8- Người Thầy tôi sắp kể ra đây thì chưa hề dạy Hoàng Diệu một giờ nào cả! nhưng lại được nhiều học sinh của Hoàng Diệu “thọ giáo”. Đó là Thầy Trần Xưng Thấu, người chuyên dạy cho các trường Tư Thục trong tỉnh, và là người dạy thêm nổi tiếng, nhất là “Luyện Thi Tú Tài 1”.
Đến đây, tôi xin được nói thêm một chút, lúc đó tại Sóctrăng có 3 “lò” luyện thi, "lò" lâu đời nhất là “lò” Thầy Thấu (Toán – Lý Hóa), kế đến là “lò” Đồng Tiến (Thầy Hoàng Việt Sơn –Anh văn, Thầy Ngô Trọng Bình – Anh Văn, Thầy Nguyễn Bình – Toán, Thầy Lâm Ngọc Linh – Lý Hóa, sau có thêm Thầy Nguyễn Ngọc Long), sau ra thêm “lò” Lam Sơn (Thầy Lâm Cộng Hưởng – Toán, Thầy Dương Minh Tự - Toán, Thầy Nguyễn Đình Sinh – Triết học, Việt Văn). Thầy Thấu là người “theo thuyết thực hành” do đó Thầy khi dạy chú trọng cho bọn tôi làm bài tập thật nhiều (tại lớp) cũng như ở nhà. Thầy thường xuyên nhắc bọn tôi là “không ai ngồi nhìn người khác đạp xe, bơi lội mà biết lội” và “trong kỳ thi Tú Tài tất cả các “con ngựa (môn thi) phải đồng chạy lên dốc, nếu để chỉ vài “con ngựa” có hệ số cao (Toán-Lý-Hóa của ban B, Vạn Vật-Lý-Hóa của ban A) kéo thêm các con có hệ số thấp (Sinh Ngữ 1, Sinh Ngữ 2, Công Dân, Sử-Địa, Vạn Vật của ban B, Toán của ban A) thì rất là khó đậu như chính bản thân tôi đây làm điển hình!!!”
Kể “dài dòng văn tự” về Thầy Thấu, để cho thấy là các Thầy dạy Hoàng Diệu rất là “phóng khoáng”. Các Thầy (đều là “dân” tốt nghiệp Đại Học) chỉ cần sao cho “2 lần 2 là 4” là cho điểm chứ không cần phải đúng theo lời văn (lời giải) của mình như các Giáo Sư hiện giờ (chỉ cho điểm cao em nào học thêm với mình)!!!!
Bạn Bè Của Tôi:
1- Huỳnh văn Nam, tôi và Nam học chung lớp từ năm đệ Thất đến hết năm lớp 11, chỉ đi chơi chung vài lần, không thân lắm. Nhưng tôi thích Nam ở tính anh hùng, bạn bè đứa nào cần là Nam giúp được thì giúp ngay, khi còn đi học, cũng như khi vào đời. Khi còn đi học (năm đệ tứ đến năm đệ nhị) Nam là một trong số học sinh đi học bằng xe Honda (lúc đó số đó đếm trên đầu ngón tay), nhưng đứa nào cần, nhất là “lấy le” với bạn gái, lại gặp Nam “nói rỏ sự tình” là Nam cho mượn xe ngay, có đứa mượn xe chạy mà không đổ xăng nữa, không hề phàn nàn tiếng nào!
2- Trương Kiến Dũng, nhà tôi cũng tại tỉnh lỵ Sóctrăng, nhưng kể từ năm đệ Tam cho đến ngày 30/4 tôi ăn ngủ ở nhà của Dũng nhiều hơn nhà của tôi. Tính hay lý sự, nhưng rất tốt với bạn bè, nên có rất nhiều đứa đến ăn ngủ nhà của Dũng (Dũng có 1 phòng riêng trên lầu), nhất là trong các kỳ thi, như Lâm anh Tuấn (Tuấn Vũng Thơm), Quan Minh Sơn, Tăng dù Sủnh (hiện đang định cư ở Úc), Lê thanh Tâm, Phạm Minh Quang (cả hai đã chết, Tâm tử trận ở Kiến Tường). Kỷ niệm sâu sắc nhất của bọn tôi là:
Hằng tuần, Dũng được gia đình cho 20 đồng (thời đó ly cà phê đá quán Trang bán một ly 2 đồng, bên ngoài bán 1 đồng), bọn tôi thì ít khi có tiền, mỗi lần lại nhà Dũng ngủ thì tiền đó dành để sáng uống cà phê, thuốc hút cho cả bọn tại quán Bà Tư trước cổng Trường. Khi đông quá thì chơi chiêu nầy: có một đứa lãnh 2 đồng, 1 điếu capstan và “một cái bọc nylon” ra quán Trang uống, với nhiệm vụ là “xúc” của quán Trang một “bọc nylon đường” mang về cho cả bọn đang chờ ở nhà bên Filtre cà phê Dũng pha ở nhà bỏ vào cà phê để uống (nước đá lấy từ tủ lạnh nhà Dũng), trên đường về mua 1 gói capstan (8 đồng) dấu kỷ mang về cho cả bọn “phì phà” (dấu vì nhà đứa nào cũng cấm con hút thuốc, nhất là Ba của Dũng). Thỉnh thoảng, Má của Dũng vào dọn phòng, hốt “cả bụm” tàng thuốc trong phòng, bèn hỏi “tụi mầy hút thuốc hả Dũng” cả bọn đều trả lời “không có, cái đó là Hia Ngạ (anh bà con của Dũng, Cảnh Sát Dã Chiến) hút”. Trả lời xong cả bọn bụm miệng cười (vì ai mà hút cả tháng với số tàn lượm được như vậy vài lần trong tháng thì chắc là phải cắt 2 lá phổi bỏ!!!). Sau ngày 30/4, Dũng làm ở Ngân Hàng (Giám Đốc), bạn bè đứa nào có khó khăn thì Dũng kêu đến Ngân hàng làm đơn vay (ưu tiên), lãi suất thấp (lúc đó gia cảnh của Dũng cũng khó khăn lắm, ai cũng vậy trong thời gian đó!).
3- Trần văn Quận, tôi và Quận biết nhau khi học chung ở lớp 7P1, Quận lớn hơn tôi một tuổi. Tôi và Quận không chơi thân với nhau, nhưng tôi mến Quận (chắc có lẽ các bạn khác cũng vậy) vì lối sống chan hòa, không gây gổ với ai, và nhất là không vì lợi ích cá nhân mà “đâm sau lưng chiến sĩ”. Kỷ niệm của bọn tôi là khi còn học Đệ Nhất Cấp, tôi và Quận thường về Đại Ngãi (quê tôi), Hậu Thạnh (quê của Quận) trên chuyến xe cuối cùng trong ngày cuối tuần (sau khi tan học chiều), hai đứa chung một sở thích là ngồi vắt vẻo trên mui xe đò, để tán dóc, chứ không chịu ngồi trong cabin xe. Bởi tính tình hiền lành, nên lúc sau nầy, Quận là trung tâm cho mọi chuyện liên lạc, tổ chức họp mặt của bạn bè.
4- Lê thanh Tâm, tôi và Tâm cùng tuổi, cùng từ thất 4 trường Trần Văn sang học Hoàng Diệu cùng một lớp. Tôi mến Tâm vì tính thẳng thắng, nghĩ gì nói nấy, đôi khi hơi quá lố. Kỷ niệm của tôi và Tâm là năm học lớp đệ tứ (4P1) Tâm có thương một người học dưới bọn tôi hai lớp), nhưng không dám nói (đây là bệnh chung của đa số học sinh thời đó “nhát gái”) dù rằng bình thường chuyện gì cũng dám, nhưng chuyện nầy lại sợ sệt một cách kỳ lạ!!! Thư viết cho “nàng” nhiều lần “mang đến lại mang về”. Vào ngày tất niên của năm học, Tâm lấy hết can đảm viết cho cô ấy một bức thư, nhưng khi vào trường thì lại “xanh máu mặt”, cuối cùng thì không biết ai chỉ (bậy!) Tâm dùng rượu để lấy can đảm, nhờ tôi đi tìm gọi “nàng” đến để “bày tỏ tâm tư”. Nhưng hởi ôi!!! Khi tìm gặp và dẩn cô ấy vào lớp gặp, thì hởi ôi! Tâm đã quá “xỉn” nằm sấp trên bàn, khi nghe tôi bảo “Ê! có C. . . Ch. . . tới nè” Tâm chỉ biết vổ vổ vào túi quần sau thôi!!! hiểu ý, tôi lấy ra một lá thư trao cho Ch . . . mang đi. Vậy là “đứt dây đàn”!!
Năm 72, do lệnh tổng động viên Tâm phải nhập ngũ, tử trận cuối năm 1973.
5- Lâm anh Tuấn (Tuấn Vũng Thơm), tôi học P2, Tuấn Học P3 ở những năm Đệ Nhất Cấp. Sang Đệ Nhị Cấp tôi học ban B, còn Tuấn học ban A. Năm thi Tú Tài 1 Tuấn rớt, phải đi lính. Ba tôi và Ba của Tuấn là bạn thân. Tôi và Tuấn biết nhau năm đệ tam, trong một kỳ đi chơi ở bên Cồn Nhơn Mỹ (Cù Lao Quốc Gia), đi bằng xe Honda, do Chị Lâm Hoàng Yến tổ chức.
Năm 1972, tôi và Tuấn gặp nhau tại Sàigòn. Tuấn đang chờ ngày đi học khóa Sĩ Quan Đặc Biệt ở Thủ Đức, còn tôi thì đi nộp đơn vào Không Quân (Phi Công) vì năm nầy có thông tin là Giáo Sinh Sư Phạm năm thứ nhất sinh năm 1952 không được cho học nữa (các bạn tôi sinh năm 1952, thi đậu Tú Tài 2 đang học năm thứ nhất Đại Học đã bị động viên cả rồi). Vậy là 2 thằng ban ngày thì làm “tư ếch đi Sàigòn”, tối đến khi thì ngủ nhà của Mợ Tư của Tuấn ở đường Dương Bá Trạc (quận 4”, khi thì ngủ nhà chị tôi. Khi không trúng tuyển vào Không Quân (vì bị phát hiện là cận thị khi khám sức khỏe) và Bộ Giáo Dục cho tôi (và những người sinh năm 1952 đang học Sư Phạm) học lại vì nhu cầu Giáo Dục quá lớn. Tôi về Sóctrăng tiếp tục học ra làm “Thầy giáo làng”, Tuấn vào Thủ Đức.
Ngày Tuấn ra trường, về Kế Sách coi 1 Đại Đội Địa Phương Quân, tôi ra trường về Cầu Lộ (cách Kế Sách khoảng 6 km) dạy. Có lần, vì ham chơi nên sau khi về Sở Học Chánh lĩnh lương, ở lì tại Sóctrăng không về trường dạy. Trung Tá Phan Khánh gọi lên hỏi tại sao tôi bỏ nhiệm sở, tôi “đổ thừa” là tại đường không an ninh nên không về trường được. “tại sao tôi đi được mà Thầy thì không?”, “dạ tại khi Trung Tá đi thì có lính nằm đường”, “vậy có lính nằm đường Thầy có đi không?”, “dạ vậy thì tôi đi”. Vậy là Trung Tá Khánh bảo Chi Khu cho lính mở đường cho tôi đi, và dặn là khi nào tôi tới Cầu Lộ thì báo cho Chi Khu biết!!. Ác một nỗi, Đại Đội của Tuấn được chọn làm nhiệm vụ. Phải đi bộ 6 Km, vừa mệt, vừa nguy hiểm, gặp tôi Tuấn chửi “ỏm tỏi”.
Sau năm 1975, tôi không gặp Tuấn mãi cho tới khi tổ chức buổi Họp Mặt Kỷ Niệm 50 Năm Rời Trường (11/01/2014) tôi mới gặp lại Tuấn từ Úc về dự.
6- Tô anh Tuấn (Tuấn Bãi Xàu, Tuấn Tô), tôi và Tuấn Tô là đối thủ “bền lâu” trong “sòng” đập bạc cắc đã “mô tả” ở phần trên, nhưng tôi khoái Tuấn tính ba-gai khi vào lính (bị động viên sớm vì sinh năm 1951), mỗi khi nghe bạn bè về phép, bọn tôi hỏi thăm thì “y như rằng” Tuấn mới vừa hết hạn bị kỷ luật về tội ba-gai. Khi còn học đệ thất, đệ lục, tôi có vài lần tập lội cho Tuấn khi tắm ở Hồ Nước Ngọt, nhưng không thành vì Tuấn không chịu buông tôi ra để tự lội. Chắc có lẽ “trên cỏi đời nầy” chỉ có mình Tuấn Tô là lính Hải Quân mà không biết lội?!?! và quậy phá đủ thứ để được xuống đi tàu mà vẫn không thành (!!!) Không biết giờ nầy Tuấn có biết lội chưa???!!! Sau năm 1975, tôi có gặp Tuấn vài lần từ Úc về chơi mà quên hỏi!!!
7- Quan Minh Sơn (Sơn ròm), tôi và Sơn đi học ngồi cạnh nhau suốt từ lớp đệ thất cho đến những năm học trong trường Sư Phạm, nhà Sơn là tiệm chụp hình Quan Minh, tại chợ Long Phú. Sơn rất có “hoa tay” nên vẽ rất khéo, trong suốt thời gian tôi học Sư Phạm một tay Sơn làm “học cụ” cho tôi (và nhiều người khác) dạy “thực tập”. Trong năm học “Đệ Nhất Niên” tôi và Sơn “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” ở nhà Trương Kiến Dũng. Khi ra trường, Sơn dạy ở xã Long Đức, còn tôi dạy ở Cầu Lộ (Thới An Hội), cùng một tỉnh, nên hằng tháng đều gặp nhau tại Sở Học Chánh (nằm trong khuôn viên trường Hoàng Diệu) để lãnh lương. Sơn Ròm, nhỏ con lại lưng tôm, nhưng tửu lượng rất cao, đứa nào cưới vợ đều “mượn” nó theo để uống rượu thay, phòng khi “được” đàng gái mời “đấu rượu”!!! Sau ngày 30/4, có lúc Sơn thường hay đến nhà tôi nằm chơi cả buổi không nói gì (sau nầy biết được là Sơn định rủ tôi vượt biên trong chuyến đi do Sơn tổ chức) rồi ra về. Sau nghe được là Sơn bị một thằng bạn cũng khá thân (Sơn thấy thương nên cho “đi ké”) lừa lấy tàu đi trước, bỏ Sơn lại cùng các “khách hàng” khác ở lại (còn phải chạy “vắt giò lên cần cổ” nữa). Sau nầy qua Úc, Sơn phải lo “cày” trả “nợ tàu” trong một thời gian dài, tội nghiệp quá!!!
8- Nguyễn Nhựt Điệp (Điệp móm), Điệp học sau tôi một năm, nhưng thuộc “băng” ăn ngủ ở nhà Trương Kiến Dũng, nhà Điệp ở ngay bên kia đầu cầu Phú Lộc (cũ). Trong những năm Đệ Nhị Cấp, “giới văn nghệ . . . sĩ!” của Hoàng Diệu, chắc ít ai quên cặp bài trùng Sơn Xuân – Nhựt Điệp trong các buổi văn nghệ giúp vui, thi đấu của Hoàng Diệu. Có một lần, năm tôi học lớp 12, bọn tôi về nhà Điệp chơi (mồng 3 tết) được Má của Điệp đãi món dưa tỏi (còn nguyên củ), thịt kho rệu, uống “bia 33”, món dưa tỏi ngon đến đổi bây giờ tôi vẫn còn “thèm”. Năm lớp 11 Điệp thi rớt, về Phú Lộc làm lính Nghĩa Quân gác cầu Phú Lộc. Sau 30/4 tôi có vài lần xuống Phú Lộc tìm Điệp, nhưng hởi ôi!! Nhà cũ còn đây (làm Ngân Hàng Nông Nghiệp) còn “thằng Điệp” không biết về đâu!!. Sau nầy nghe người quen nói lại là nó sống ở vùng kinh tế mới nào đó, có vợ con rồi, nhưng rất nghèo.
Buồn và thương nó quá!!
Tình Yêu Của Tôi:
Đời học sinh, có mấy ai mà không có một mối tình vắt vai.
Trong những lần đi hoạt động gây quỹ cho trường, trong những lần đội banh Hoàng Diệu đi dự giải, thì thường xuyên có mặt của 2 “Nàng Lệ” (Trịnh Lệ Nhi và Phan Lệ Thúy) theo cổ vũ, “vô nước” cho đội nhà.
Trong một buổi tập trước trận thi đấu bóng chuyền, có một đường banh bay lạc ra khỏi sân tập, quay lại thì hởi ôi!! trái banh đang nằm chỏng chơ trong xô nước uống đổ tung tóe, Phan Lệ Thúy đang đứng ngây người vì sợ hãi, còn Trịnh Lệ Nhi thì đang xoa xoa bã vai. Biết là đường banh (hơi mạnh tay) đã bay trúng “2 Nàng Lệ” nhà ta rồi, cả đội banh không ai dám đi nhặt lại quả banh (vì sợ bị chưởi!!!), thế là tôi đành phải đi, cứ tưởng đến nơi sẽ bị “cằn nhằn” nào ngờ Lệ Nhi nhanh nhẩu nhặt quả bóng trong thùng nước uống đưa cho tôi kèm theo nụ cười và câu “lát nữa đập banh cho trúng như trúng vào thùng nước nghen!!!”
Hình như “con tạo” đã an bài, trong những lần gặp nhau sau đó, dù là đi chung rất nhiều người, nhưng bạn bè (nhất là Huỳnh Minh Nguyệt, Huỳnh Minh Hoàng) của 2 bên cũng cứ mang tên tôi và Nàng để chỉ cho “đối tượng” biết thôi. “Mối tình đầu của tôi” mang tên “Trịnh Lệ Nhi”. Nó “hình thành” và đến tôi như thế đó!!!
Trong năm đó, vì mãi mê quét dọn “con đường tình ta đi” nên tôi với Nhi đều rớt Tú Tài. Trong nỗi buồn thi rớt, tôi và Nhi đã rong chơi gần như tất cả các con đường nội ô tỉnh lỵ, Đại Ngãi quê tôi, Bưng Tróp quê của Nhi . . . .Nhất là thường xuyên bảo tôi chở sang Mỹ Xuyên đến nhà “Dung Bãi Xàu” chơi, từ 5-6 giờ chiều mãi đến 7-8 giờ tối mới về Sóctrăng !!!!
Một thời gian sau thì Nhi được gia đình “mang đi cất” ở Sàigòn, đễ luyện thi lại Tú Tài 1.
. . . . .7 giờ sáng hôm ấy, như thường lệ, tôi và mấy thằng bạn nối khố ra quán Trang uống cà phê thì Nhi đến cho hay là sẽ đi Sàigòn học, tôi vào quán bảo đám bạn đợi tôi mang tiễn Nhi ra bến xe Cần Thơ chút xíu rồi về uống cà phê.
Ngày xưa, khi còn 2 bến bắc Cần Thơ và Mỹ Thuận, khi đi Sàigòn phải đi xe chuyền (Sóctrăng – bắc Cần Thơ – bắc Mỹ Thuận – Sàigòn) cho nhanh, khỏi phải bị kẹt bắc. Khi đưa Nhi lên xe rồi, tôi còn lưu luyến đứng chờ xe chạy, Nhi chợt nói “đi nữa đi!”, tôi ra dấu là không có mang tiền theo, Nhi ra dấu “Em có”, vậy là tôi nhảy phóc lên xe để đi bến bắc Cần Thơ. Khi vào bên xe Bình Minh để đi đến bắc Mỹ Thuận thì điệp khúc “đi nữa đi” lặp lại. Sau khi sang sông Mỹ Thuận, đến bến xe đi Sàigòn (hết bắc rồi!!) điệp khúc “đi nữa đi” lại lặp lại. Khi tôi đã lên xe ngồi cạnh Nhi thì Nhi xuống xe mua 2 ổ bánh mì thịt mang lên để 2 đứa cùng ăn. Chắc hẳn ai cũng biết là thức ăn ở bến bắc thời đó đã mắc mà lại không ngon, nhưng sao hôm đó tôi ăn ổ bánh mì thấy ngon quá!!!
Vậy là 3 giờ chiều hôm đó bọn tôi có mặt ở bến xe Chợ Lớn, sau khi nhìn nhau “con mắt còn có đuôi” Nhi lên taxi về nhà, còn tôi thì “tiển em đi rồi, một mình tôi tiển tôi đi” về Sóctrăng.
Tối hôm ấy, về đến nhà, tuy là rất mệt sau một ngày ngồi xe, nhưng tôi vẫn không ngủ được, cứ nằm trăn trở cười “mình ên”, nhớ mãi câu “đi nữa đi”!!!!! Nếu như bây giờ thi chắc là “nấu cháo điện thoại đã luôn!!!! Chỉ 3 từ đơn sơ “đi nữa đi”, nó dài 200 km, 8 giờ đồng hồ đi xe. Còn các bạn thì sao? Dài chừng bao nhiêu??!!
Sau ngày 30/4, tôi và Nhi vẫn thường gặp nhau, nhưng trong “tình bạn chí thân”, Mãi cho đến khi gia đình Nhi “đăng ký vượt biên” bằng thuyền thì gần 40 năm rồi không gặp !!!!!
Trong “dân gian” có bài “Mười Năm Tình Cũ” do ca sĩ Elvis Phương hát, Ông Phan Khôi “hai mươi năm sau tình cờ đất khách gặp nhau”, Không biết “40 năm rồi không gặp” so với “Mười Năm Tình Cũ” và “Tình Già” thì sao đây “quây” ?!?!
* * *
Câu chuyện “Hoàng Diệu Còn Lại Trong Tôi” được tôi hồi tưởng đến đâu thì ghi lại đến đó, nên có thể là không đủ, cũng có thể là thiếu chính xác, lời văn có hơi “bình dân” tựa như khi nói chuyện, có những từ ngày xưa thường xài (ngày nay thì không, nhưng ý tôi là muốn “vũ như cẩn”), mong các “đồng môn” “hỉ xã” cho.
Thân!
Lý Văn Hào chs HD 64-71
|